Tất cả đều sẽ…/ Hoàng Mai Đạt

*Đọc 8 phút*

Bài HOÀNG MAI ĐẠT

Giấc mộng đêm qua thật huyền nhiệm, dịu êm. Ông Wes nắm tay lái của chiếc xe tải Ford đỏ đời cũ, tôi ngồi bên cạnh nhìn phong cảnh bên ngoài tấm kiếng trong suốt –một nghĩa trang phủ dưới tuyết trắng, thấp thoáng những tấm bia đứng lặng yên như một đội quân thiên cổ trồi bên trên lớp băng giá mùa đông. Cơn mộng đến từ ký ức của gần nửa thế kỷ trước, của những năm cuối thập niên 1970. Trong cõi ký ức ấy, mỗi lần lái xe băng ngang một khu nghĩa trang, giữa mùa tuyết hay trong mùa mưa, mùa nắng, ông Wes luôn luôn mỉm cười nhìn tôi và đố, “Con biết có bao nhiêu người chết trong nghĩa địa này chăng?”

Lần đầu nghe ông Wes hỏi như thế, tôi phân vân nhìn những hàng mồ mả, đưa ngón tay đếm nhanh các ngôi mộ ngang dọc, làm toán cộng rồi nhân lên, cố gắng tính toán chớp nhoáng như máy điện tử theo tánh khí háo thắng của một đứa trẻ mới lớn, rồi đáp bằng thứ tiếng Anh chưa sõi, “Bảy, tám chục người, không chừng cả trăm mạng chứ không ít.”

Nghe vậy, ông Wes liền cười khì, mắt híp lại trước câu trả lời rất ư thật thà của một đứa trẻ mới đến từ một xứ chiến tranh mà ông chỉ biết qua màn ảnh truyền hình. “Bao nhiêu ư? Tất cả! Tất cả đều đã chết,” ông cho câu giải đáp, thích thú nhìn tôi vừa bừng hiểu ra một sự thật hiển nhiên ngay trước mắt. “Tất cả đều chết hết. Đúng không? Nghĩa địa này toàn người chết.”

Ông ngưng vài giây cho tôi suy ngẫm thêm, rồi nói tiếp, “Tuy nhiên, câu đáp này chỉ có thể được dùng khi con không thấy một bóng người nào trong nghĩa trang. Nếu có một ai đó đang đi đứng trong khu đất ấy thì không thể nói ‘tất cả đều chết’ được.”

Năm đó ông Wes đã gần sáu-mươi tuổi, còn tôi mới đến thị xã Rillton cùng với mẹ và em trai. Ba mẹ con tị nạn chúng tôi từng được một gia đình Mỹ bảo trợ ra khỏi trại Indiantown Gap cuối mùa hè năm 1975. Gia đình Mỹ này không khá, nội bộ lủng củng, được mấy tháng thì họ giao chúng tôi cho một nhà thờ Presbyterian ở thị xã Irwin, rồi nhà thờ tìm nhà thuê cho ba mẹ con ở giữa mùa đông, đến hè năm sau chúng tôi dạt về Rillton. Ba mẹ con ở chung trong một ngôi nhà hai tầng với gia đình chủ sống trên lầu, một cặp vợ chồng trẻ bên trái của tầng trệt, chúng tôi bên phải. Nhà của vợ chồng ông Wes-bà Rita ở bên kia đường, cao hơn trên dốc đồi, sân rộng, có cây ăn trái, khấm khá hơn gia đình chủ nhà của chúng tôi một chút.

Ngay ngày đầu chúng tôi mới đến, ông Wes đã bước qua thăm hỏi, khuyến khích hai anh em tôi theo ông học nghề đóng đinh đẽo gỗ. Ông là tay thợ mộc chính của hãng điện Westinghouse thời bấy giờ. Em tôi không mấy hứng thú chuyện đinh búa; còn tôi, mến ông ngay từ phút đầu, mỉm cười khi hiểu được câu nói tự diễu của ông rằng ông “là người gốc Đức mà trông giống y chang một anh Ý tóc quăn đen, bị bà vợ gốc Hung Gia Lợi ăn hiếp.” Cũng như câu đố về mấy ngôi mộ ở nghĩa trang, câu “tôi giống anh Ý” được ông Wes nhắc lại vô số lần trong hai năm tôi sống ở Rillton.

Trong quãng đời tưởng chừng như mộng huyễn đó, mỗi chiều, sau giờ làm bài học, tôi qua nhà ông Wes, theo ông như bóng với hình cho đến khi bà Rita gọi ông vào nhà ăn tối. Phần tôi, cơm nước xong với mẹ và em, lại chạy qua nhà ông Wes, tiếp tục cuộc chơi nghề thợ mộc. Ông dạy tôi dùng các máy cưa cắt, gọt dũa trong căn nhà nhỏ mà ông tự xây ở cuối sân. Ông chỉ tôi đóng những chiếc bàn picnic nho nhỏ dùng đựng hai chai tương ketchup-mustard, hai lọ muối-tiêu; và trong lúc thằng bé hàng xóm miệt mài chà láng mấy thanh gỗ dài hơn gang tay, ông già nằm ngủ gật trên chiếc ghế xếp dựng trong góc phòng.

Đến cuối tuần, mỗi khi đi làm thêm ở nhà ai, hay đến thăm bạn, ông thường dắt tôi theo để có dịp bán mấy món thủ công bằng gỗ, giúp tôi có tiền mua thêm chiếc áo, cái quần, máy chụp ảnh mà tôi mơ ước. Đó là cách ông Wes tặng tôi tình thương, dạy dỗ đứa trẻ đã mất cha ở trận địa, bị ông ngoại xa lánh, chưa hề biết mặt ông nội. Các cháu ngoại của ông Wes không màng chuyện đóng gỗ mài cây, lại hiếm ghé thăm vì ở xa, nên tôi trở thành “đệ tử chân truyền” của ông trong nghề thợ mộc, đi đâu cũng hai ông cháu. Mỗi dịp ngồi chung xe là tôi được nghe ông kể chuyện, từ chuyện ông là lính Bộ Binh đóng ở xứ Ý thời Đệ Nhị Thế Chiến, chuyện gặp bà Rita sống cùng miền quê tây Pennsylvania, và câu đố “tất cả” ở nghĩa trang. Ông hiếm khi nhắc đến tin thời sự, chỉ thở dài khi nghe đài phát thanh nói ở đâu đó có chiến tranh, có chuyện bất công, đói kém.

Rời Rillton theo mẹ làm ở hãng gần Pittsburgh, có lần tôi về thăm ông bà Wes khi học đại học. Trong suốt hơn hai-mươi năm, mỗi Giáng Sinh là dịp tôi gởi thiệp từ nơi xa về Rillton thăm hỏi ông bà Wes, và bà luôn hồi âm với một lá thư dài viết chữ đẹp tựa “én liệng, mây bay,” nhắc nhở rằng ông bà vẫn nhớ đến tôi. Rồi một hôm giữa tháng Tư còn lạnh rét của năm 2005, nhân dịp từ California bay về vùng đông bắc Mỹ, tôi lái xe suốt một ngày để đưa vợ và con gái về thăm ông bà Wes. Ông nằm trong phòng khách, ngồi dậy đón tôi với một nụ cười mừng vui, chắc hẳn vui hơn thời thầy trò còn gặp nhau mỗi đêm ở căn nhà gỗ. Bà Rita khen vợ tôi đẹp, bé gái xinh. Bà cũng đẹp, còn khỏe mạnh để lo cho chồng gần 85 tuổi.

Lúc chia tay, chúng tôi ôm ông bà, chúc họ được bình an, mạnh khỏe. Rời phòng khách, tôi nhìn ông Wes một lần cuối, ông cũng mỉm cười hiền lành ngó theo, như biết đó là dịp chót ở cõi này. Mấy tuần sau ông Wes mất, ra đi đúng ngày sinh nhật của ông đầu tháng Năm. Đến cuối năm bà Rita cũng theo chồng về cõi hư vô, được chôn cạnh người bạn đời dưới một gốc cây ở nghĩa trang.

Họ đã rời một thế gian mà ai đến rồi cũng phải đi. Lần lượt và chắc chắn. Em tôi đã mất bảy năm trước, mẹ tôi lìa trần hồi cuối năm ngoái. Còn tôi, tôi đang sống trong giấc mộng lái xe ngang nghĩa trang để thấy cảnh “Tất cả đều đã…”

Buổi viếng chùa sáng Chủ Nhật không huyễn hoặc nhưng vẫn tưởng như mơ. Tôi đến một ngôi chùa ở Stanton, nơi mẹ tôi từng sinh hoạt nhiều năm, để rước hũ tro cốt của bà và chuyển đến một ngôi chùa khác ở Santa Ana, nơi sắp tổ chức chương trình rải tro cốt ở biển cho mấy chục gia đình vào cuối tháng Tám. Giữa lúc chùa Stanton đang hành lễ Vu Lan, tôi đứng trước bức tường trưng bày di ảnh người quá cố trong chánh điện. Mỗi tấm ảnh là một hương linh đã từng trôi qua cõi ta bà này. Tường kê mấy chục hàng ảnh, gồm cả ảnh các thân nhân của tôi. Thấy có anh thanh niên đang trầm tư nhìn một di ảnh, tôi tính đố anh ta câu cổ điển của ông Wes, “Cháu có biết bao nhiêu người chết trên bức tường trưng ảnh vong linh này không?” Nghĩ vậy nhưng lại thôi không hỏi, rồi tự trả lời “Tất cả.”

Có tổng cộng 51 giỏ đựng tro cốt được chuẩn bị tại Chùa Bát Nhã, Santa Ana sáng 31 tháng 8, 2025, trước khi được các thân nhân mang rải ở biển sáng cùng ngày. (Photo: Chùa Bát Nhã/ Facebook)

Có tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” trong giấc chiêm bao trôi bồng bềnh trên biển, mỗi lúc một lớn hơn. Gió ngoài khơi mát lạnh thổi vào tàu, làm giảm bớt cơn nóng bám theo từ đất liền dưới mặt trời chói chang. Các thân nhân thả giỏ đựng tro cốt xuống nước. Tôi ôm chiếc giỏ màu đỏ của mẹ đi theo ở cuối hàng, cố gắng giữ thăng bằng trong chiếc tàu đang lắc lư ngoài khơi Long Beach. Tro của mẹ nặng hơn của em, tôi thầm nghĩ, nhớ lại cảm giác thả tro của em xuống biển sáu năm trước, cũng tại Long Beach đây. Khối tro xám trôi ra khỏi giỏ và chìm dần xuống nước, những cánh hoa trôi dạt với nhau kết thành từng đám hướng ra khơi, rời xa những chiếc giỏ xanh-đỏ đang được kéo vội vàng lên tàu. Tôi nới lỏng sợi dây cho chiếc giỏ trôi lờ lửng dưới nước thêm một hồi lâu.

Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật.

Tôi niệm ra tiếng liên tục hòa trong gió tiễn mẹ lên một hành trình tâm linh mới. Đến khi tàu đổi hướng quay vào bến, tiếng niệm chuyển vào bên trong nội tâm, vẫn vang vọng như mong cho ý lành được lan tận đến cõi vô tướng, vô tận. Chiếc giỏ được kéo lên, một chương đời được đóng lại. Đoàn người ở cõi này theo nhau bước lên bờ dưới ánh nắng thiêu đốt của một ngày cuối hè.

Tất cả cũng đều như thế, sẽ kết thúc là khối tro xám hoàn trả cho thế gian, sau một cơn mộng dài không tới trăm năm. Sẽ sống như thế nào với phần đời còn lại? Tôi tự vấn mình. Có nên đuổi bám theo những thú-cho-là-vui của người trần thế? Một món ăn, một thắng cảnh, một tác phẩm, một dịp hạnh phúc riêng tư được ghi hình và “chia sẻ” với bạn “toàn cầu”? Gia nhập những cuộc tranh luận giữa “chúng mình” với “chúng nó” về mấy chuyện thời sự diễn biến không ngưng, không ngớt mỗi ngày?

Câu đáp có lẽ đã có từ ngày ông Wes đến trong đời tôi. Đơn giản thôi: Sống với tình thương, cho mọi người và cho chính mình, không đòi hỏi một điều kiện nào hết. Những ngày ngồi chung xe với ông Wes đã chỉ cho tôi cách sống vị tha đó.

Hết thời làm nghề viết lách, tôi bước vào một nghề khác và may mắn còn được dùng vốn liếng chữ nghĩa mà đôi khi mất tăm trong trí nhớ của một người trên sáu-mươi. Hầu như mỗi ngày làm việc tôi đều được cơ hội giúp những phụ huynh có con em bị khiếm khuyết trong khả năng học hành. Đa số con của họ là trẻ bị tự kỷ ở những mức độ khác nhau. Em tôi cũng đã là một đứa trẻ như thế, hơn nửa đời người đi lang thang ngoài đường từ sáng đến tối, nên tôi thông cảm nỗi khổ đau của những bà mẹ, ông cha phải cưu mang một đứa con mà mình biết sẽ không bao giờ lành bệnh. Không bao giờ. Hành trình khổ nạn của họ chỉ mới bắt đầu, của tôi thì đã sang trang. Tôi tặng họ những gì mà tôi có thể cho được: Thời giờ lắng nghe và sự cảm thông từ kinh nghiệm đau thương của bản thân.

Giấc mộng hiện thời là một giấc mộng đẹp, huyền dịu. Tôi cầm tay lái của chiếc xe nhìn phong cảnh bên kia tấm kiếng trong, trong suốt như không có sự phân biệt giữa trong và ngoài. Nơi kia còn bao nhiêu cảnh khổ? Tất cả. Cuộc sống là cuộc khổ, mà cũng là cơ hội cho tôi được tiếp tục học làm người vị tha. Một ước mơ bình dị cho kiếp này. ●

Feature photo credit: San Diego Burial At Sea


Discover more from Tinh Tấn Magazine

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *