Bài TT TRI RATNA PRIYA KARUNA
Chuyển ngữ PHÚC QUỲNH
(Thượng Tọa Tri Ratna Priya Karuna (Thích Tâm Tuệ) xuất gia tu học năm 1994 tại International Buddhist Meditation Center-IBMC do Hòa Thượng Thích Thiên Ân (1925-1980) sáng lập tại Los Angeles năm 1970. Sau khi Hòa Thượng Thích Thiên Ân viên tịch, Ni Sư Karuna Dharma (Thích Nữ Ân Từ) đảm nhận vai trò điều hành IBMC, tổ chức những hoạt động hoằng pháp và tu học cho người Mỹ. Thầy Tri Ratna Priya Karuna đã giảng nhiều bài pháp sâu sắc, có giá trị tại IBMC. Thầy viên tịch ngày 16 tháng 1, 2016. Xem thêm các link ở cuối bài để biết thêm về trung tâm IBMC, Hòa Thượng Thích Thiên Ân, và nguồn bài ‘My Experiences with Amitabha Buddha’ của thầy Tri Ratna Priya Karuna.)
Tôi không nghĩ Ni Trưởng Karuna Dharma sẽ đề nghị tôi giảng thêm một bài pháp về Phật A Di Đà quá sớm sau bài giảng trước đó. Tôi tưởng mình sẽ trở lại với những đề tài như Tứ Vô Lượng Tâm hoặc Thập Nhị Nhân Duyên chẳng hạn. Tuy vậy, tôi rất vui khi có được thêm một cơ hội để nói về Phật A Di Đà và những giáo lý liên hệ đến Ngài.
Có thể khẳng định chắc chắn rằng không có tôn giáo nào trong lịch sử thế giới có thể tồn tại được hàng trăm năm, chứ đừng nói đến hơn hai thiên niên kỷ, nếu tôn giáo đó chỉ thu hút thành phần học giả và trí thức. Thế nên, vì Phật giáo đã phát triển trong hơn 2500 năm, trong đó phải có những yếu tố quan trọng đã nuôi dưỡng và duy trì hàng triệu người qua nhiều thế kỷ, cho dù họ sanh ra với trí tuệ không bằng kẻ thông thái hoặc thiếu cơ hội giáo dục để phát triển khả năng tinh thần, họ vẫn được ban tặng nguồn lực cảm xúc phong phú và khả năng có đức tin sâu sắc.
Sự thỏa mãn cho những người nghèo, tầm thường, chuyên cần làm việc không đến từ việc theo đuổi học thuật, mà từ việc thể hiện và tham gia vào các mối quan hệ khác nhau. Họ muốn trao tặng tình thương, đương nhiên, nhưng trên hết, họ muốn cảm thấy được yêu thương, nuôi dưỡng và bảo vệ, không chỉ bởi một nhóm hỗ trợ trong xã hội loài người như gia đình, bạn bè và người yêu, mà còn bởi một số sức mạnh thiêng liêng vô cùng quan tâm đến họ và từ bi với họ.
Những vị tổ sư tạo lập và phát triển Phật Giáo Đại Thừa trong những thập niên trước và sau Công Nguyên đã tinh ý nhận thức về nhu cầu sâu sắc của đa số những cư sĩ về một hình thức Phật giáo chủ yếu mang tính sùng tín có thể mang lại ý nghĩa và cảm hứng cho cuộc sống ảm đạm của họ.
Với sự xuất hiện của ba bộ kinh kể về Đức Phật A Di Đà và sự phát triển của học thuyết tam thân mà tôi đã thảo luận trong bài pháp lần trước, một giáo phái Phật giáo thuần túy sùng tín không chỉ có thể được tạo lập mà cuối cùng đã trở thành sự thực. Tại Ấn Độ, hành giả đặt ưu tiên cách tiếp cận Phật pháp bằng trí tuệ và tầm quan trọng tối cao của trí tuệ dành cho mục tiêu giải thoát, và quan điểm này đã ngăn cản các hình thức Phật giáo nhấn mạnh đức tin và lòng sùng tín được trở thành một trường phái độc lập ở đó.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là luận sư Long Thọ, người đã sống vào thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên và thành lập Trung Quán Tông (Madhyamika) tạo ảnh hưởng lớn, và theo truyền thuyết, ngài đã mang đến bộ kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa cho thế giới. Vị luận sư vĩ đại này đã nêu quan điểm rằng “đối với những người nghiêm túc tu hành theo Phật giáo, họ có hai con đường để bước tới, một là con đường khó khăn dựa trên tự lực, và hai là con đường dễ hơn nương vào lòng từ bi của Đức Phật.”
Ngài Long Thọ được các tổ xem là nhân vật quan trọng thứ hai trong lịch sử Phật giáo sau Đức Thích Ca Mâu Ni. Vì công nhận sự hợp lý của con đường đức tin và lòng sùng tín, ngài Long Thọ được coi là vị Tổ Sư đầu tiên của Tịnh Độ Tông. Ngài tuyên bố rằng hoạt động chính yếu của người tu hành theo con đường sùng tín chỉ nên đơn giản là tôn thờ Phật Di Lặc của tương lai, và Phật A Di Đà.
Phật Di Lặc đang ở cung trời Đâu Suất (Tusita) và đợi cho đến đúng thời điểm để giáng thế ở cõi Ta Bà, và như vậy thì vào lúc này hay trong hàng ngàn năm nữa Phật Di Lặc sẽ không can dự vào vận mệnh đang diễn ra ở thế gian. Thế nên trong các vị thánh xứng đáng được tôn kính nhất vào thời của Long Thọ, cũng như thời đại của chúng ta, là Đức Phật A Di Đà và trưởng tử của Ngài là Bồ Tát Quán Thế Âm qua biểu tượng nam hoặc nữ, vì chính họ đang tích cực phụ trách trong thời kỳ của thế giới này.
Mặc dù trong nhiều thế kỷ, sự sùng tín một giáo phái này hay giáo phái khác đã được thể hiện trong trường phái Đại Thừa như một phần không thể thiếu trong việc tu tập và hành đạo, nhưng đến thế kỷ thứ tư của Công Nguyên, ở Trung Hoa, một nhà sư tên là Huệ Viễn (333-416) mới phát triển một giáo phái sùng đạo mãnh liệt mà các tín đồ tập trung vào việc thờ phụng Đức Phật A Di Đà. Thế rồi giáo phái này trở thành là một trường phái riêng biệt, tức là Tịnh Độ Tông, và theo thời gian Tịnh Độ Tông được công nhận rộng rãi là một trong bốn trường phái chính của Phật Giáo Đại Thừa.
Phật Giáo nói chung đã trải qua nhiều thăng trầm ở Trung Quốc, đạt đến tột đỉnh về quyền lực, tầm ảnh hưởng, và sự phổ biến trong thời nhà Đường (618-907), rồi suy tàn và thỉnh thoảng hưng thịnh trở lại trong những thế kỷ sau đó. Theo thời gian, sau tất cả những căng thẳng mà Phật Giáo phải gánh chịu, các giáo phái kinh viện chuyên về học thuật bị đẩy qua bên lề, chỉ có hai giáo phái mạnh nhất và phổ biến nhất được tồn tại, là Thiền Tông và Tịnh Độ Tông.
Tại Nhật Bản, nơi Phật Giáo lần đầu tiên được du nhập vào năm 552, mãi đến thời kỳ Kamakura [Liêm Thương] (1185-1397) thì Tịnh Độ Tông nhấn mạnh đến ý tưởng cứu rỗi thông qua ân sủng của Đức Phật A Di Đà mới được truyền bá. Chẳng bao lâu sau, pháp môn này đã thu hút được sự ủng hộ rộng rãi trong thành phần nông dân, ngư phủ, lao công, và giới buôn bán hàng quán; lúc bấy giờ thành phần này bị áp bức nặng nề bởi các tầng lớp cao hơn trong xã hội.
Đến cuối thế kỷ thứ mười hai, hai bậc thầy vĩ đại đã xuất hiện, và nhờ công lao của họ mà Tịnh Độ đã phát triển và thịnh vượng, trở thành pháp môn Phật Giáo phổ biến và được chấp nhận rộng rãi nhất ở Nhật Bản. Vị thầy đầu tiên là Honen Shonen (Pháp Nhiên Thượng Nhân) đã sáng lập ra tông phái Tịnh Độ Jodo Shu, và sau đó là Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) đã sáng lập ra Tịnh Độ Chân Tông. Cả hai vị thầy đều nhấn mạnh rằng những người mong muốn được tái sinh ở Cực Lạc, thành tâm nghĩ đến Phật A Di Đà và niệm danh hiệu của Ngài qua câu “Namo Amida Butstu” (Nam Mô A Di Đà Phật) thì sau khi lâm chung sẽ được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Pháp Nhiên và Thân Loan đều tin rằng việc niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà (Amida Butsu, tiếng Nhật) là đủ, vì bản thân danh hiệu này chứa đựng bản chất của Đức Phật A Di Đà và không thể tách rời khỏi Ngài.
Mặc dù không coi thấp các cách thức hành đạo khác như nghiên cứu, thiền định, khổ hạnh, v.v., ngài Pháp Nhiên rõ ràng đã xem việc niệm Phật là cao hơn tất cả các pháp môn khác. Tuy nhiên, ngài liên tục tuyên bố rằng niềm tin không nghi ngờ ở Đức Phật A Di Đà và năng lực dẫn dắt chúng sanh đến cõi Tịnh Độ là hoàn toàn cần thiết để đạt được mục tiêu này. Trong khi đó, ngài Thân Loan dạy rằng sự mong muốn được tái sinh ở cõi Cực Lạc là đủ để bảo đảm được tái sinh ở đó, bởi vì chính Đức Phật A Di Đà sẽ cung cấp niềm tin không nghi ngờ này một khi một tín đồ chân thành mong muốn được cứu rỗi và bắt đầu tin ở Ngài.
Ngài Pháp Nhiên dạy rằng Đức Phật A Di Đà có năng lực xuất hiện và tiếp dẫn những người mang nghiệp chướng nặng nề nhất đến cõi Tịnh Độ của Ngài, bởi vì chúng sanh đã suy đồi nghiêm trọng kể từ thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài Thân Loan còn đi xa hơn nữa và tuyên bố rằng lời nguyện cứu rỗi của Đức Phật A Di Đà chủ yếu dành cho những người tội lỗi, vì một người đức hạnh có thể đạt được giác ngộ thông qua nỗ lực của bản thân. Sau mười hai thế kỷ phát triển, hình thức Phật Giáo sùng tín đã đạt đến cao điểm trong giáo lý của Thân Loan Thánh Nhân. Ngài còn đi xa hơn khi tuyên bố một cách dứt khoát rằng sự tái sinh ở cõi Tịnh Độ cũng chính là đạt được Niết bàn. Trong một câu trích dẫn tuyệt vời, ngài Thân Loan đã nói, “Trong cõi Tịnh Độ có sự Giác Ngộ vô song.”
Thân Loan khuyên chúng ta nên mong cầu sự tái sinh ở cõi Tịnh Độ hay Giác Ngộ không phải trong suốt cuộc sống hàng ngày, vì cuộc sống luôn đầy những căng thẳng và sự phiền nhiễu, mà đặc biệt là khi chúng ta sắp lâm chung. Khi đó, đức tin mà chính Phật A Di Đà đã cung cấp, nếu chúng ta nhiệt tâm và chân thành mong muốn được tái sinh ở cõi Tịnh Độ, sẽ dẫn chúng ta đến một khoảnh khắc vô ngã thuần túy, trong đó chúng ta sẽ nhận ra rằng mọi nỗ lực để tự đạt được Giác Ngộ sẽ chỉ củng cố thêm cảm giác tách biệt của chúng ta.
Trong giây phút lâm chung, chúng ta sẽ đặt hết niềm tin trước Lòng Từ Bi của Đức Phật A Di Đà, tin tưởng Ngài sẽ tiếp dẫn chúng ta đến bờ cõi thiêng liêng của Tây Phương Cực Lạc, cho dù bản thân chúng ta chẳng có một giá trị nào. Hãy tưởng tượng rằng sau một cuộc sống đầy đau khổ, thất vọng và đau đớn, trái tim trong lồng ngực bạn bắt đầu yếu dần, và mỗi hơi thở mới đòi hỏi một nỗ lực tối cao. Một vị tăng của Tịnh Độ Chân Tông được gọi đến để an ủi bạn trong khoảnh khắc đau khổ tột cùng. Ông mang đến bên giường bạn một bức tranh hoặc hình ảnh tuyệt đẹp của Đức Phật A Di Đà, và ông sẽ đặt vào tay bạn một đầu của một sợi chỉ vàng. Đầu kia của sợi chỉ sẽ được nối vào hình ảnh rạng rỡ của Đức Phật A Di Đà, và về mặt tượng trưng, bạn được hợp nhất với Ngài.
Trong khi ý thức của bạn rời khỏi thân thể mệt mỏi của mình, đôi mắt sẽ nán lại một lúc trên bức tranh hoặc hình ảnh của Đức Phật A Di Đà, và khi thần thức của bạn rời bỏ tấm thân tàn phế, hình ảnh của Đức Phật A Di Đà sẽ mờ dần và được thay thế bằng Đức Phật A Di Đà thực sự, cùng với Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí, và thánh chúng. Giữa tiếng hoan ca và nhạc trời của vô lượng chư thiên, bạn sẽ được đưa đến cõi Tây Phương Cực Lạc. Khi đến đó, bạn sẽ không còn phải chịu luật nhân quả nữa và không phải tái sanh vào một trong sáu cõi luân hồi. Tuy nhiên, ngay cả tại thời điểm này, bạn sẽ không rút vào nơi ẩn náu mát mẻ của Niết Bàn, tách ra khỏi thế gian và tất cả chúng sinh đau khổ ở đó. Không có gì có thể buộc bạn trở về cõi Ta Bà, ngoại trừ lòng từ bi tràn đầy của chính bạn và sự mong ước mãnh liệt muốn các chúng sanh khác được thoát khổ, nếu có cơ hội. Cuối cùng, theo bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà, tất cả chúng sanh ở Cực Lạc sẽ được dẫn đến Giác Ngộ.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn những hình ảnh mà tôi mang đến cho bạn xem. Nhân vật chính, lẽ đương nhiên, là Phật A Di Đà, mà nhìn từ mọi khía cạnh đều giống y như Phật Thích Ca Mâu Ni, bởi vì cả hai Phật đều có cùng một bản chất. Bàn tay tạo thủ ấn tượng trưng cho thệ nguyện cứu độ hết tất cả các chúng sanh của Phật A Di Đà. Bên trái của Phật A Di Đà là Quán Thế Âm Bồ Tát, hiện thân lòng từ bi của Phật A Di Đà. Quán Thế Âm cầm một đóa sen [hay cành dương liễu] với tịnh bình để mang thần thức của người qua đời về tái sanh ở Tây Phương Cực Lạc. Bên phải Phật A Di Đà là Đại Thế Chí Bồ Tát, hiện thân của sức mạnh và trí tuệ vĩ đại.
Hai bức tượng khác mà tôi đặt trên bàn thờ, mỗi bức ở một bên của bộ ba vị thánh, thoạt nhìn có vẻ không phù hợp và không thích nghi. Thay vì vậy, hai tượng đó là hình ảnh cảm động về những tín đồ thấp hèn mà người ta có thể tìm thấy ở bất cứ đâu. Đối với tôi, hai tượng đó đại diện cho hàng triệu người bị áp bức, những người có thể phải ăn mặc rách rưới và hầu như không có một mẩu bánh mì để ăn hoặc một nơi để ngủ. Những người thấp kém này xứng đáng đứng bên cạnh Đức Phật A Di Đà vì họ không bị tách biệt khỏi Ngài bởi cảm giác sai lầm về một bản ngã hay cái tôi vĩnh cửu, đó là rào cản tệ hại nhất có thể ngăn cản một người nhận được ân sủng chuyển hóa và năng lượng sống dồi dào mà Đức Phật A Di Đà đã nhiệt tình muốn gửi đến tất cả những người con của Ngài. Họ chỉ nhìn thấy vẻ đẹp xung quanh mình, phản chiếu từ sự trong sáng và lòng nhân từ của chính bản thể bên trong họ, và mọi điều phiền não bên ngoài đều tan biến thành hư vô so với niềm an lạc mà họ cảm thấy đến từ tình thương vô hạn của Đức Phật A Di Đà dành cho họ.
Tôi chắc rằng mọi người ở đây hôm nay, giống như hai nhân vật tưởng tượng mà chúng ta vừa thảo luận, muốn gạt bỏ mọi lo lắng sang một bên và trải nghiệm sự bình yên và hạnh phúc của cõi Tịnh Độ ngay tại đây và ngay bây giờ trong cuộc sống hàng ngày của mình. Mỗi chúng ta là một bóng đèn, cho đến khi dòng điện là Phật A Di Đà được bật lên. Về việc vãng sanh ở cõi Tịnh Độ, một khi chúng ta để Đức Phật A Di Đà chiếu sáng hào quang của Ngài qua chúng ta, chúng ta trở thành những con chim bồ câu đưa thư theo bản năng sẽ tìm đường về nhà ở cõi Cực Lạc, bất kể khoảng cách, sự khó khăn hay nguy hiểm của chuyến bay trở về.
Vậy Phật A Di Đà có ý nghĩa gì đối với cuộc sống của tôi? Tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng nếu không có ảnh hưởng và nguồn cảm hứng của Phật A Di Đà, tôi sẽ không có mặt ở đây ngày hôm nay. Tôi chấp nhận học thuyết về Vô Ngã hay không có linh hồn vĩnh cửu và nhận ra rằng khi không có bản chất của riêng mình, tôi hoạt động như một đường dẫn mà Phật A Di Đà có thể dùng để chuyển năng lượng chữa lành, nâng cao, nuôi dưỡng của Ngài đến tất cả các chúng sanh khác. Nếu có bất cứ công đức nào trong công việc của tôi, thì đó là vì Đức Phật A Di Đà đang thể hiện Ngài thông qua tôi.
Tuy nhiên, hầu như tất cả quá trình tu hành của tôi đều đã diễn ra tại I.B.M.C. [Trung Tâm Thiền Học Phật Giáo Quốc Tế ở Los Angeles], nơi được xem là một ngôi chùa Thiền Tông. Do đó, ngoài đức tin của tôi ở Đức Phật A Di Đà, tôi tin rằng mọi tín đồ Phật giáo chân thành đều nên thực hành thiền định nếu họ được trang bị tinh thần để làm như vậy. Đường dẫn của tôi mà Đức Phật A Di Đà chảy qua đã bị ngăn cản một phần, và dòng chảy ân sủng của Phật A Di Đà bị cản trở bởi bùn lầy ô nhiễm tích tụ mà tôi đã để cho sự vô minh, tức giận và ảo tưởng xâm nhập vào ý thức của mình. Tôi không biết cách nào tốt hơn để chùi sạch, thanh lọc và khai thông đường dẫn của mình hơn là thực hành thiền định hàng ngày.
Liệu có thể vừa là một Phật tử Thiền Tông vừa là một Phật tử Tịnh Độ cùng một lúc không? Để trả lời câu hỏi này, tôi tham khảo cuốn sách đầy cảm hứng ‘Zen Philosophy, Zen Practice’ [Triết Lý Thiền, Thực Hành Thiền] của Hòa Thượng Tiến sĩ Thích Thiên Ân, người sáng lập Trung Tâm đáng kính của chúng ta. Hòa Thượng nói rằng một số học giả lỗi lạc cổ võ cho sự phát triển độc quyền của “tự lực” theo phong cách Thiền Tông không hề xem xét đến việc dựa vào “tha lực,” nghĩa là họ chỉ dựa vào vị thiền sư dạy họ cách ngồi, rèn luyện tâm trí, suy nghĩ với công án và thực hành tọa thiền. Tiến Sĩ Thiên Ân đặt câu hỏi, “Nếu không có sự thúc đẩy liên tục của thiền sư, thì có bao nhiêu người đạt được giác ngộ?”
Câu hỏi này đưa đến một kết luận không thể tránh khỏi là nếu một thiền sư chỉ chứng ngộ được một lượng trí tuệ và lòng từ bi giới hạn mà còn có thể hỗ trợ lớn lao như vậy cho các đệ tử của mình trong hành trình đạt giác ngộ, thì Đức Phật A Di Đà, người đã đạt đến trạng thái trí tuệ hoàn hảo và lòng từ bi vô hạn, chắc chắn có thể giúp họ nhiều hơn thế nữa.
Hòa Thượng Thiên Ân khẳng định một cách dứt khoát rằng niềm tin vào “tha lực” của Đức Phật A Di Đà giúp chúng ta phát triển “tự lực” của mình. Trên thực tế, Hòa Thượng khuyến khích một phương pháp thực hành kết hợp sự phát triển của “tự lực” theo phong cách Thiền với sự tin tưởng vào “tha lực” của Đức Phật A Di Đà. Nói cách khác, thiền sinh nên kết hợp việc hành thiền với việc tụng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật.” Thiền sinh và Đức Phật trở nên hiệp nhất với nhau trong một sự hợp nhất huyền bí. Không còn sự phân biệt nào giữa Thiền và Tịnh Độ, tự lực hay tha lực, trí tuệ hay lòng từ bi, vì mọi thứ đã chuyển hóa thành ánh sáng của Vô Lượng Quang. Luân Hồi trở thành Niết Bàn. Tất cả sự an lạc và thanh tịnh của Tây Phương Cực Lạc đều được nhận ra trong hiện tại và trong lúc này của cuộc sống hàng ngày. Ở đây hai pháp môn Thiền và Tịnh Độ gặp nhau tại một điểm chung mà cả hai đều phát ra, Tâm Nhất Thể của Đức Phật, đó là Bản Chất Tâm thực sự và vĩnh cửu của chúng ta.

Tham khảo thêm:
A Short History – The I.B.M.C.
My Experiences with Amitabha Buddha
Remembering Rev. Tri Ratna Priya Karuna
IBMC: Trung tâm Thiền do người Việt sáng lập tại Los Angeles
Discover more from Tinh Tấn Magazine
Subscribe to get the latest posts sent to your email.