Bài HƯƠNG PHAN
Là đệ tử của Phật, vâng lời Phật, chúng tôi ăn chay niệm Phật và thường tụng kinh bái sám mỗi ngày.
Nghi lễ Phật giáo rất phong phú với nhiều bài sám như Sám A Di Đà, Sám Nguyện, Sám Phổ Hiền (Mười Hạnh Phổ Hiền – Thập Chủng Đại Nguyện), Sám Nhất Tâm, Sám Thập Phương, Sám Phát Nguyện, Sám Phát Nguyện Quy Y Tam Bảo, Phát Nguyện Sám Hồi, Sám Quy Mạng, Sám Khể Thủ, Sám Phật Đản, Sám Phật Xuất Gia, Sám Phật Thành Đạo, Sám Phật Niết Bàn, Sám Vu Lan, Sám Nguyện Quan Âm… Mỗi bài sám, mỗi từ đều rất có ý nghĩa và đầy cảm xúc. Trong mỗi thời kinh, có lẽ lúc đọc các bài sám là lúc sâu lắng và nhẹ nhàng nhất, tôi có cảm giác như được bày tỏ tâm tư, ăn năn hối lỗi, nay được gặp Phật để biết đường về, không còn lang thang bao nẻo luân hồi nữa.
Trong bài viết này, xin được chia sẻ ý nghĩa trong vài bài sám mà nhà chùa thường tụng.
BÀI PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI
Đệ tử kính lạy
Đức Phật Thích Ca
Phật A Di Đà
Mười phương chư Phật
Vô lượng Phật Pháp
Cùng Thánh Hiền Tăng.
Đệ tử lâu đời lâu kiếp.
Nghiệp chướng nặng nề,
Tham giận kiêu căng
Si mê lầm lạc.
Ngày nay nhờ Phật,
Biết sự lỗi lầm
Thành tâm sám hối.
Thề tránh điều dữ
Nguyện làm việc lành
Ngửa trông ơn Phật
Từ bi gia hộ
Thân không tật bệnh.
Tâm không phiền não
Hằng ngày an vui tu tập.
Pháp Phật nhiệm mầu
Để mau ra khỏi luân hồi.
Minh tâm kiến tánh
Trí tuệ sáng suốt
Thần thông tự tại
Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng.
Cha mẹ anh em
Thân bằng quyến thuộc
Cùng tất cả chúng sinh
Đồng thành Phật đạo.
Bài sám 30 câu (mỗi câu 4,5,6, hoặc 7 chữ) này chia thành 4 đoạn như sau:
* Đoạn 1 (6 câu): Quy kính Tam bảo
Đệ tử kính lạy
Đức Phật Thích Ca
Phật A Di Đà
Thập phương chư Phật
Vô thượng Phật pháp
Cùng Thánh Hiền Tăng.
Hành giả hết sức cung kính năm vóc sát đất đảnh lễ Tam bảo (ba ngôi quý nhất trên đời):
Phật bảo: Đức Phật Thích Ca (vị Phật hiện tiền) và Phật Di Đà (Phật quá khứ).
Pháp bảo là Vô thượng Phật pháp.
Tăng bảo gồm Thánh Hiền Tăng ở tại đây và ở khắp mười phương thế giới.
Như vậy, chỉ một lễ kính lạy này mà hành giả có thể hướng đến cả ngàn Tam bảo ở khắp mười phương trong quá khứ, hiện tại và tương lai, giống như tinh thần của Kinh Hoa Nghiêm mà Bồ tát Phổ Hiền đã lạy:
Nhất tâm đảnh lễ, đệ tử chúng con đại vì bốn ân ba cõi chí thành đảnh lễ:
Nam Mô Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp Thiên Phật.
Nam Mô Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật.
Nam Mô Vị Lai Tinh Tú Kiếp Thiên Phật.
Nam Mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh tác đại chứng minh.
Công đức thật vô lượng khi chúng ta biết quán tưởng diệu dụng bất khả tư nghì nơi đoạn 1 của bài sám này.
Sau khi đảnh lễ Tam bảo nơi nương tựa vững chắc trong biển khổ luân hồi việc chính của chúng ta là sám hối và phát nguyện. Do đó, đoạn 2 gồm hai nội dung chủ yếu: Bộc bạch sám hối (câu 7 13) và Chí thành phát nguyện (14 25).
* Đoạn 2 (7 câu): Phát lồ những sai lầm quá khứ của mình
Đệ tử lâu đời lâu kiếp
Nghiệp chướng nặng nề
Tham, giận, kiêu căng
Si mê lầm lạc
Ngày nay nhờ Phật
Biết sự lỗi lầm
Thành tâm sám hối.
Để có mặt hiện diện hôm nay là chúng ta đã trải qua bao lần sanh tử từ vô thủy đến nay như trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã dạy rằng: “Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sanh tử tiếp nối đều do chẳng biết chân tâm thường trụ, tánh thể trong sạch sáng suốt, lại nhận các vọng tưởng, mà các tưởng này không phải chân thật cho nên bị lưu chuyển”.
Chúng ta do lầm chấp thân này là thật (thân của mình), các trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) là cảnh cuộc đời của mình và các vọng tưởng 6 thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức) là tâm yêu thích của mình, nên tạo nhiều lầm lỗi si mê.
Nhờ Đức Phật chỉ dạy chúng ta biết: thân là đất nước gió lửa giả tạm sẽ tan rã bất cứ lúc nào. Cảnh cuộc đời bên ngoài và ngay cả các tâm như tôi yêu, tôi ghét, tôi giận, tôi mừng… là theo duyên mà giả hiện, không có duyên thì tan rã, nên không vì đó mà nổi lên tham sân si tạo nghiệp khổ cho mình và người.
Nghiệp chướng gồm có 3 là: phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng.
Phiền não chướng là: căn bản ba độc của tham, sân, si. Từ tham, sân, si, nảy sinh các phiền não khác như mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến….
Nghiệp chướng là các nghiệp xấu do thân, miệng, ý sanh ra.
Báo chướng là những quả báo 3 đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) do nhân xấu của phiền não và nghiệp đưa đến đọa lạc.
Ngày nay nhờ Phật chỉ dạy mà chúng ta phân biệt biết phải trái, hư ngụy, mê giác… để chọn đường lành mà đi, sám hối lỗi cũ.
* Đoạn 3 (7 câu): Nguyện tránh ác làm lành
Thề tránh điều dữ
Nguyện làm việc lành
Ngửa trông ơn Phật
Từ bi gia hộ
Thân không tật bệnh.
Tâm không phiền não
Hằng ngày an vui tu tập.
Là đệ tử Phật “Con không giống lông cũng giống cánh,” Đức Phật là bậc thanh tịnh, giải thoát thì chúng ta cũng phải tu tập giải thoát thanh tịnh như đấng từ phụ. Đức Phật từng nói rằng: “Như Lai cũng là một con người. Ta chứng ngộ và chia sẻ phương cách giải thoát từ sự trải nghiệm và chứng nghiệm của mình” (I am as a human being, share the way from my enlightened experience), nghĩa là ngài cũng là một con người biết tự vươn lên từ ngũ dục tham sân si để giác ngộ, thì chúng ta cũng vậy.
Để ngăn ngừa việc ác sẽ sanh và gieo trồng việc thiện, chúng ta nên thực hành tứ chánh cần là bốn pháp siêng năng tinh tấn hợp với chánh đạo. Đó là:
* Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh.
* Tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sanh.
* Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh.
* Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
Do sống chánh hạnh theo bốn pháp chánh cần này cùng với lễ lạy thành tâm thống thiết sám hối, nên thân không bệnh tật, tâm không phiền não. Thân an, tâm an minh tịnh, hàng ngày an vui tu tập. Đời sống mỗi ngày, mỗi ra hoa kết nụ giới định tuệ, không còn phạm sai lầm nữa.
* Đoạn 4 (10 câu) : Phát nguyện cứu độ tất cả chúng sanh
Pháp Phật nhiệm mầu
Để mau ra khỏi luân hồi.
Minh tâm kiến tánh
Trí tuệ sáng suốt
Thần thông tự tại
Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng.
Cha mẹ anh em
Thân bằng quyến thuộc
Cùng tất cả chúng sinh
Đồng thành Phật đạo.
Sau khi sám hối, nguyện không tái phạm lỗi cũ của tham sân si và vun trồng hạnh lành của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định… để rửa sạch ba nghiệp: nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng. Khi không còn nghiệp nữa thì không bị lôi kéo trong sáu nẽo luân hồi, tâm trí trở nên minh tâm kiến tánh, trí tuệ sáng suốt, thần thông tự tại… Sau khi phần tự giác, tự ngộ đã xong thì hành giả sẽ có khả năng độ tha, giúp người, hòa quang đồng trần, cứu nhân độ thế. Lúc đó, hành giả có thể cứu độ cha mẹ, bà con quyến thuộc và các chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.
Ý nghĩa bài sám rất sâu sắc, cao thượng là mô tả cả một tiến trình tu tập, chuyển hóa từ phàm phu thành thánh hiền của tất cả chúng ta.
BÀI SÁM PHỔ HIỀN
Một là lễ kính chư Phật.
Hai là xưng tán Như Lai.
Ba là quảng tu cúng dường.
Bốn là sám hối nghiệp chướng.
Năm là tùy hỷ công đức.
Sáu là thỉnh chuyển pháp luân.
Bảy là thỉnh Phật trụ thế.
Tám là thường tùy Phật học.
Chín là hằng thuận chúng sanh.
Mười là phổ giai hồi hướng.
Bồ tát Phổ Hiền là vị Bồ tát được thờ với hình tượng ngồi trên voi trắng sáu ngà bên phải của Đức Phật Thích Ca (chính giữa) và Bồ tát Văn Thù (cưỡi sư tử) ở bên trái.
Bồ tát Phổ Hiền biểu trưng cho lòng từ bi độ lượng, lý đức, định đức và hạnh đức. Trong khi bồ tát Văn thù là biểu trưng cho Trí tuệ chứng nghiệm và chứng ngộ.
Theo Hoa Nghiêm tông, Phật Tỳ Lô Giá Na cùng Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền là Hoa Nghiêm Tam Thánh. Mật Tông xưng tụng Bồ tát Phổ Hiền là Thiện Nhiếp Kim Cương, Chân Như Kim Cương, Như Ý Kim Cương. Ngài còn được xem là đồng thể với Kim Cương Tát Đỏa. Kinh Hoa Nghiêm là một kinh đại thừa nói về thế giới huyền hoa tạng rất khó và mười hạnh Phổ Hiền trong bài sám này là phẩm thứ 40, phẩm cuối của Kinh Hoa Nghiêm, như vậy bài sám Mười Hạnh Phổ Hiền này rất quan trọng.
Lễ kính Chư Phật
Lễ Phật tức có nhiều tầng ý nghĩa tùy theo sự quán tưởng của từng vị hành giả:
Đảnh lễ các hình tượng Phật, tháp thờ, các thánh tích nơi Đức Phật Thích Ca đã đi qua như Lâm tỳ ni, Bồ đề đạo tràng, Lộc Uyển, Câu thi na…
Đảnh lễ tánh giác thường hằng nơi mỗi chúng ta, mỗi vị sẽ thành Phật trong tương lai như Bồ tát Thường Bất Khinh nói rằng: “Tôi không dám khinh quý ngài vì quý ngài sẽ thành một vị Phật trong tương lai.”
Xưng tán Như Lai
Đức Như Lai là bậc có mười hiệu: Như Lai (bậc chưa từng đến đi), Ứng Cúng (bậc tự giác, giác tha, giác hành viên mãn, nên xứng đáng được cúng dường), Chánh Biến Tri (không chỗ nào mà chẳng biết, không chỗ nào mà chẳng thông hiểu), Minh Hạnh Túc (phước được tròn đầy, huệ được viên mãn), Thiện Thệ (khéo biết dùng phương tiện thiện xảo độ sanh), Thế Gian Giải (biết hết các pháp thế gian), Vô Thượng Sĩ (người chí sĩ cao thượng đệ nhất), Ðiều Ngự Trượng Phu (bậc anh hùng khéo điều ngự mình và và người), Thiên Nhân Sư (Thầy của cõi trờ và người), Phật (bậc giác ngộ), Thế Tôn (bậc tối thượng cao quý nhất được tôn thờ và kính trọng trên đời).
Chúng ta là bậc phàm phu tục tử nhiều báo chướng, nghiệp chướng và phiền não chướng nặng nề, chưa có công hạnh hay đức trí nào đầy đủ, cho nên khát ngưỡng tán dương chư Như Lai với mười danh hiệu, mười tánh đức để tu học theo.
Trong các kinh điển, như kinh Hoa Nghiêm, hầu như trong tất cả các pháp hội, trước khi trình bày nghĩa lý pháp thoại, các pháp sư (Bồ tát, đại sĩ, thiện tri thức…) đều khen ngợi các đấng Như Lai, rồi sau đó mới vào đề tài pháp thoại, như để nhắc thính chúng về những bi trí viên mãn của Chư Như Lai và được thần lực gia trì của các ngài trong pháp hội.
Quảng tu cúng dường
Tu tập công hạnh bố thì tài thí (nội thí và ngoại thí), pháp thí và vô úy thí.
Đức Phật nhiều đời kiếp hành hạnh bố thí thân, nhảy vào đống lửa để cầu pháp, nghe điều thiện lành để chỉ dạy dân chúng, sống theo Pháp phật tcảm hóa dân chúng; cắt thịt nơi thân mình làm thực phẩm nuôi cha mẹ khi gặp cơn hoạn nạn đói kém, nằm làm món ngon cho hổi đói ăn để có sức nuôi ba hổ con đang đói sắp chờ chết… Cuộc đời ngắn ngũi nên tập bố thí cúng dường để cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Chúng ta có rất nhiều cách cúng dường Phật như nhập thất, tụng kinh, ngồi thiền, in kinh, ấn tống… hay làm từ thiện giúp người nghèo, mở trường học, xây nhà thương, cưu mang trẻ mồ côi, giúp người cô đơn bạc phước, xây cầu, tặng nhà tình nghĩa, cơm chay miễn phí, an ủi người khi hoạn nạn, bị bịnh, sa cơ thất thế…đều là những hành vi cao quý.
Sám hối nghiệp chướng
Sám là ăn năn, hối là chừa bỏ không tái phạm.
Ở cõi trần này, nhất cử nhất động đều phạm tội. Không chánh niệm khiến buông lời tổn thương người, súc vật và cây cỏ; thân làm điều sai trái và ý không trong sáng. Bậc tu thiện mới thấy mình nhiều sơ suất lỗi lầm. Kẻ hung ác không bao giờ thấy mình sai trái. Sám hối để lương tâm thanh thản và nhắc nhở chúng ta sẽ không còn làm chuyện xấu nữa. Sám hối là một phương pháp để chuyển hóa.
Chúng ta cũng cần phải sám hối vì đã tàn phá bao loài cây cỏ, núi rừng khiến gây cảnh lụt lội, bão tố, cuồng phong, đất đai sụp lở. Chúng ta không những sám hối với người sống mà cả những người đã chết. Chúng ta cần phải sám hối tới ngọn ngành.
Sám hối ngày đêm cho đến khi không còn gì để sám hối nữa. Như thế mới gọi là sám hối báo chướng, nghiệp chướng và phiền não chướng.
Tùy hỷ công đức
Chưa có phước đức hay tài năng như người, nhưng cứ hoan hỉ chia vui , chúc mừng người khác. Giống như ngọn đèn cày, mồi lửa thì ngọn đèn gốc sáng và ngọc thứ hai cũng sáng như nhau.
Người biết tùy hỉ công đức và biết gáng vác Phật sự công đức rất lớn.
Công đức không tùy thuộc khối lượng khổng lồ mà là sự tăng trưởng tâm lành ngay trong chính con người mình. Tùy hỉ công đức sẽ giúp chúng ta tránh xa tâm ghen ghét tật đố.
Thỉnh chuyển pháp luân
Luôn cầu thỉnh học hỏi để ngày mỗi ngày tốt hơn. In kinh, ấn tống, mở đạo tràng tu học… là một trong những cách để lời Phật, thông điệp hạnh phúc được lan tỏa khắp nơi.
Thỉnh Phật trụ thế
Phật đã nhập Niết bàn, nhưng chúng ta xây chùa tô tượng, đúc tượng Phật để thế nhân biết về Vị Phật Thích Ca trong đời này là một cách thỉnh Phật trụ thế.
Chúng ta mời các giảng sư giảng pháp. Khi pháp Phật lan truyền thì đạo còn và Phật vẫn còn ở với chúng ta. Chúng ta đi tu khóa Phật thất, Bát quan trai giới, … biểu hiện lòng từ bi và trí tuệ là chúng ta có Phật hiện diện. Đạo Phật hưng thịnh là Phật vẫn còn ở với chúng ta.
Thường theo Phật học
Ca dao có câu: “Ở ống thì dài, ở bầu thì tròn,” “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, cho nên thường theo Phật học để hình thành nhân cách thánh hiền.
“Con không giống lông thì cũng giống cánh” Phật là bậc uy nghi thánh thoát, thì chúng đệ tử của ngài cũng vậy. Thân khẩu ý, lời ăn, tiếng nói, cách đi đứng nằm ngồi, cách cư xử, cách hành động lúc nào cũng an nhiên, tự tại, uy nghiêm như sư tử vương, như đệ tử Phật.
Hằng thuận chúng sanh
Bồ tát tùy nhu cầu của chúng sanh mà tùy thuận dùng phương tiện rồi sau đó, tìm cách độ chúng sanh đến đường rốt ráo.
Bồ tát vào chợ để cứu chúng sanh. Vào bùn mà không nhiễm mùi bùn phải là bậc bồ tát chứng ngộ, nêu còn yếu dễ bị thoát chuyển và ô nhiễm. Giốn gnhu7 chưa biết bơi mà nhảy xuống cứu người thì sẽ bị chết chìm.
Phổ giai hồi hướng
Có công đức gì và kết quả tốt gì, hãy hồi hướng về khắp tất cả những người chúng ta có nhân duyên hay không nhân duyên.
Hồi hướng về khắp tất cả là tình thương rộng lớn, thương các chúng sanh như con đỏ. Hy sinh bỏ cái Ngã, và thấy tất cả chúng sanh là mình. Đó là lý do Bồ tát Địa Tạng nguyện: “Còn một chúng sanh nào trong địa ngục, thì tôi nguyện sẽ không chứng bồ đề.” Có cái gì tốt lành đều vì chúng sanh và cho hết cho chúng sanh để chúng giác tỉnh, giải thoát và bớt khổ.
BÀI SÁM PHÁT NGUYỆN
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội ác bởi lầm mê
Đắm trong sanh tử đã bao lần
Nay đến trước đài Vô Thượng Giác.
Biển trần khổ lâu đời luân lạc
Với sanh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng.
Đàn con dại, từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước.
Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyện
Xin sám hối để lòng thanh thoát.
Trí huệ quang minh như nhật nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sanh
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi.
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải
Nương thuyến từ vượt bể ái hà
Nhớ lời Ngài: “bờ giác không xa”
Hành thập thiện cho đời tươi sáng.
Bỏ việc ác cho đời quang đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi.
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi
Hình bóng người cứu khổ chúng sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ.
Chúng con khổ nguyền xin tự độ,
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời.
Phá si mê trí huệ tuyệt vời,
Con nhớ Đức Di Đà Lạc quốc.
Phật A Di Đà thân kim sắc
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc.
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ tát hiện ở trong.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh,
Chín phẩm sen vàng lên Giải thoát.
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành,
Con nay xin phát nguyện vãng sinh,
Cúi xin đức Tù bi tiếp dộ:
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Dà Phật
Bài sám Phát Nguyện này khác với bài trước là Bài Phát Nguyện Sám Hối, tựa đề hay ý nghĩa thì hơi giống nhau nhưng câu kệ và ngữ điệu thì khác nhau. Bài sám số 1 là câu thơ 4 chữ, trong khi bài số 2 này là thơ thất ngôn (7 chữ). Đây cũng là một bài sám quen thuộc mà hầu hết các Phật tử đều thuộc và đều cảm xúc khi tụng.
Toàn bộ bài sám gồm 12 đoạn của 4 câu (7 chữ).
* 3 đoạn đầu (12 câu): Cảm thương thân phận chúng sanh oan uổng mà trôi lăn sanh tử
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội ác bởi lầm mê
Đắm trong sanh tử đã bao lần
Nay đến trước đài Vô Thượng Giác.
Biển trần khổ lâu đời luân lạc
Với sanh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng.
Đàn con dại, từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật Tổ soi đướng dẫn bước.
Chúng ta vốn có đầy đủ tánh giác công năng diệu dụng đức tướng trí tuệ sáng suốt của Như Lai, vậy mà không biết cứ làm phàm phu trôi lăn lênh đênh trong sáu cõi luân hồi. Lúc thì lang thang trong cõi người, lúc lên cõi trời, lúc lặn hụp trong cõi súc sanh…. cứ thế đi dần sâu vào cõi mê, lạc mất lối về. Nay may mắn thấy được đạo huy hoàng, xin nương từ lực Phật tổ để trở về giác ngộ, không còn lang thang trong tình, tiền, danh lợi, phù hoa giả mộng của thế gian.
* 4 đoạn kế (16 câu):
Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyện
Xin sám hối để lòng thanh thoát.
Trí huệ quang minh như nhật nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sanh
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi.
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải
Nương thuyến từ vượt bể ái hà
Nhớ lời Ngài: “bờ giác không xa”
Hành thập thiện cho đời tươi sáng.
Bỏ việc ác cho đời quang đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi.
Hôm nay quay đầu thấy bến, nguyện quyết chí sám chừa lỗi xưa. Quyết tâm ấy phải được nuôi dưỡng, un đúc mạnh mẽ, không chỉ bằng ý tưởng, bằng lời nói, mà phải bằng hành động. Nhớ lời thề để biết dừng tay đúng lúc khi tâm nghĩ ác; không quên lời nguyện để tích cực hành thiện mọi lúc mọi nơi.
Không làm mọi điều ác,
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm Ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.
(Kệ 183. Kinh Pháp Cú Phẩm Phật Đà)
Tránh ác, làm lành, giữ tâm lương thiện trong sáng. Đây là bài kệ căn bản đại diện cho toàn bộ giáo pháp của Đức Phật, tiêu biểu cho toàn Tam tạng: Kinh Luật Luận mà Đức Phật đã để lại cho nhân thế.
Làm ác là thực hành mười điều ác.
Làm lành là thực hiện mười điền lành.
MƯỜI NGHIỆP ÁC DỮ do Thân (việc làm), Khẩu (lời nói), Ý (ý nghĩ) tạo ra:
a) Những nghiệp dữ về Thân có ba là: Sát sinh, trộm cắp, dâm dật.
b) Những nghiệp dữ về Khẩu có bốn là: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.
c) Những nghiệp dữ về Ý có ba là: Tham lam, giận hờn, si mê.
Cộng tất cả Thân, Khẩu, Ý thì có mười nghiệp dữ.
MƯỜI NGHIỆP LÀNH do Thân (việc làm), Khẩu (lời nói), Ý (ý nghĩ) tạo ra:
Nếu con người làm ngược lại với 10 nghiệp dữ trên đây thì sẽ có được 10 nghiệp lành. Mười nghiệp lành chia ra như sau:
a) Về Thân có ba: Không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dật.
b) Về Khẩu có bốn: Không nói dối, không nói thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời hung ác.
c) Về Ý có ba: Không tham lam, không giận hờn, không si mê.
Nỗ lực thực hành thập thiện là tinh thần nổi bật của các bài sám. Nhờ sự bỏ ác làm lành mà nghiệp xấu được chuyển hóa, chỉ còn nghiệp thanh tịnh và giải thoát nhẹ nhàng, như gương lau sạch bụi bây giờ trong sáng sáng để lợi ích người xem gương, nên từ nay hành giả sống đời quang đãng, rộng rãi, vị tha, thương người.
5 đoạn cuối (20 câu): Tán dương và phát nguyện vãng sanh cõi A Di Đà
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi
Hình bóng người cứu khổ chúng sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ.
Chúng con khổ nguyền xin tự độ,
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời.
Phá si mê trí huệ tuyệt vời,
Con nhớ Đức Di Đà Lạc quốc.
Phật A Di Đà thân kim sắc
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc.
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ tát hiện ở trong.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh,
Chín phẩm sen vàng lên Giải thoát.
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thể giới an lành,
Con nay xin phát nguyện vãng sinh,
Cúi xin đức Từ bi tiếp độ:
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật
Niệm Phật để nhớ Phật và thực hành theo hạnh Phật. Đức Phật A Di Đà là bậc đã trở về với tánh giác vô lượng thọ và vô lượng quang.
Kinh A Di Đà dạy:
“Thọ mệnh của Phật cũng như thọ mệnh nhân dân của ngài thì vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên có tên là Vô Lượng Thọ
“Ánh sáng của Phật này là vô lượng, soi chiếu khắp cả các nước trong cả mười phương, chẳng bị chướng ngại nào hết, nên có tên là Vô Lượng Quang”.
Chúng ta phát khởi lòng Tín (tin có cõi thanh tịnh của Đức Phật A Di Đà), Hạnh (thực hành Hạnh vô lượng quang và vô lượng thọ) và Nguyện (nguyện làm hạnh lành tái sanh về cõi Cực Lạc) quy mạng lễ A Di Đà Phật, ở phương Tây thế giới an lành. Nơi đó, chỉ có Phật và Bồ tát để cùng tu tập, nơi đó thọ mạng và hào quang trí tuệ sáng vô lượng không có giới hạn, nơi đó không còn tham sân si, tam tai, tám nạn… mà chỉ có hoa quả của tâm từ bi, vị tha, bác ái, một lòng đưa chúng sanh về cõi sáng an vui…
Cõi tịnh độ đó cũng tại tâm. Tâm tịnh thì cõi tịnh. Vì vậy, ngay tại thế gian này, hàng ngày thực hành lời Phật dạy, chuyển hóa những người xung quanh, cùng xa dần dần đường mê quay về nẽo giác, thì lúc đó chỗ uế độ nào cũng thành tịnh độ và mỗi chúng sanh là nơi để chúng ta thực hành hạnh chuyển hóa tịnh độ này như Kinh Duy Ma Cật nói: “Chúng sinh là Tịnh độ của Bồ tát”. Chúng ta sẽ xây dựng được cõi nhân gian tịnh độ như bài sám Phát Nguyện tu hành này đã truyền trao.
Mỗi đoạn mang một ý nghĩa khác nhau, nhưng đều hỗ trợ cho ý nghĩa toàn bài: thể hiện lòng thành sám hối tội lỗi của mình đã gây ra, đồng thời phát nguyện tu tập trước Tam bảo.
Sám hối nghĩa là ăn năn, không làm lỗi nữa, giống như nhổ sách cỏ dại.
Phát nguyện là gieo hạt giống bồ đề, từ bi, hỉ xả… giống như đất đã sạch, bây giờ trồng bông hoa lên. Chuyển hóa để đất tâm từ khô căn sỏi đá (ác độc) trở nên hữu dụng lợi ích (hiền lương) với nhiều hoa tươi, nên bài sám này rất có công dụng khi chúng ta tụng đọc và ứng dụng theo.
Tóm lại, chỉ bậc thánh nhân mới tránh được sai sót. Tiếng Anh có câu “Human is error,” tức là làm người không ai không lỗi. Biết lỗi và biết sám hối là người tốt, không ngụy trang che đậy. Lễ bái tụng các bài sám để nuôi dưỡng các hạt giống lành và sau đó trưởng dưỡng chúng lớn lên để tránh thiếu xót.
Nhìn tấm gương sáng của chư Phật để soi rọi mình và tụng kinh bái sám cho thanh tịnh.
Mỗi bài sám đều có ý nghĩa sâu sắc, nền tảng cho tinh thần Phật giáo, dễ thuộc vì xuôi vần, ý nghĩa uyên thâm, nên các bài sám này rất phổ biến và đi vào lòng Phật tử như các câu ca dao Phật giáo.
Xin trân trọng giới thiệu với các bạn đạo khác.
Nam mô A Di Đà Phật.
(Bài dự thi Phật Pháp Ứng Dụng do Chùa Hương Sen, Perris, California tổ chức năm 2022. Tác giả sống tại San Jose, California.)

Discover more from Tinh Tấn Magazine
Subscribe to get the latest posts sent to your email.