Bồ Đề Đạt Ma: Từ huyền thoại tới Tâm Kinh

*Đọc 32 phút*

Bài NGUYÊN GIÁC

Thiền Tông đầy những sương khói huyền thoại, ngay khởi đầu là nụ cười ngài Ca Diếp khi thấy Đức Phật cầm lên một bông hoa. Và rồi toàn bộ lịch sử Thiền, từ chiều dài hơn hai thiên niên kỷ cho tới chiều rộng lưu truyền sang nhiều quốc gia, mỗi nơi lại thêm nhiều huyền thoại. Trong đó, một khuôn mặt ẩn hiện nhiều huyền thoại là ngài Bồ Đề Đạt Ma. Bài này sẽ viết về một số huyền thoại liên hệ tới ngài Bồ Đề Đạt Ma, và về Tâm Kinh, bản văn được ngài chọn làm một trong 6 cửa vào đạo. Bài viết chỉ là những suy nghĩ riêng, vì tác giả không đại diện cho bất kỳ thẩm quyền nào. Những gì nơi đây nếu phù hợp với Chánh Pháp, chỉ là chút cơ may trộm được ý của Đức Phật. Những gì sai sót có thể có, chỉ vì tác giả tu học chưa tới nơi khả dụng. Do vậy độc giả được mời gọi đặt nghi vấn nơi bất kỳ dòng chữ nào trong bài này, lúc đó hãy tự nhìn vào tâm, đối chiếu tâm với ý kinh và tự thẩm định.

Nói cho cùng, có gì trên đời này mà thiếu vắng huyền thoại. Thế giới đầy những sương mù, hư hư thực thực. Ngay thời hiện đại, dù là đã có phương tiện truyền thông thần tốc như điện thoại thông minh, Internet… những gì chúng ta thấy nghe thực sự chỉ là vài mươi mét, và xa hơn là phải nhờ nghe kể lại, nhờ đọc trên mạng, nhờ xem TV, vậy mà tin giả, tin vịt vẫn bùng nổ khắp nơi. Trong khi Đài TV này và kênh YouTube kia nói chuyện này là ABC, thì Đài TV nọ và kênh YouTube khác lại cãi hẳn là CBA. Ý kiến dị biệt thì cũng được, nhưng sự thật là chuỵện xảy ra sao lại được kể khác nhau. Do vậy, chuyện quý ngài nhiều thế kỷ trước phả đầy sương khói khó phân là điều dễ hiểu.

Tổ thứ 27 là một Ni sư? Một điển hình về nghi vấn huyền thoại: Có phải tổ thứ 27 Thiền Tông là một Ni Sư, và Ni Sư này là Thầy dạy đạo, truyền pháp cho ngài Bồ Đề Đạt Ma? Chúng ta chỉ biết một thực tế lịch sử: Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) là người mang Thiền Tông vào Trung Hoa truyền bá khoảng thế kỷ thứ 5 hay thứ 6. Trong khi Bồ Đề Đạt Ma được gọi là tổ thứ 28 Thiền Tông, thầy của ngài là Bát Nhã Đa La (Prajnatara) trong truyền thuyết thường nhìn như một vị tăng, nhưng một số tài liệu khảo sát lại cho thấy ngài Bát Nhã Đa La là một vị ni. Theo tự điển Wikipedia, ngài Bát Nhã Đa La còn tên gọi là Keyura, Prajnadhara, hay Hannyatara, tổ sư thứ 27 của Thiền Tông.

Sử ghi rằng Ngài Bát Nhã Đa La (không nêu rõ tính phái) sinh trong một gia đình Bà La Môn ở miền Đông Ấn Độ, mồ côi từ thuở bé. Vì không có tên gia đình, do vậy ngài được đặt tên là ‘Vòng Ngọc Quý’ hay là ‘Keyura’ trước khi xuất gia. Khi Tổ thứ 26 là ngài Punyamitra tới thăm miền đất của vua của Bát Nhã Đa La, ngài Punyamitra chận chiếc xe của vua lại khi nhìn thấy Bát Nhã Đa La quỳ lạy. Lúc đó, Bát Nhã Đa La được Punyamitra nhận ra là một môn đệ kiếp trước của ngài và chính Bát Nhã Đa La là một hóa thân của Bodhisattva Mahasthamaprapta (Bồ Tát Đại Thế Chí). Punyamitra chọn Bát Nhã Đa La làm người nối pháp Thiền Tông.

Thế rồi ngài Bát Nhã Đa La đi về nam Ấn Độ, gặp Bồ Đề Đạt Ma là hoàng tử út của một vị vua. Trước khi viên tịch ở tuổi 67, Bát Nhã Đa La dạy Bồ Đề Đạt Ma hãy đi sang Trung Hoa để dạy pháp. Tới lúc viên tịch, ngài Bát Nhã Đa La bay lên trời, hóa thành lửa thiêu rụi, rồi mưa xá lợi rơi xuống cho các học trò. Sách Truyền Đăng Lục (The Transmission of the Lamp) ghi lại nhiều lời tiên tri của ngài Bát Nhã Đa La, trong đó có tiên đoán rằng sẽ xuất hiện một Thiền sư tài năng là Mã Tổ Đạo Nhất (Mazu Daoyi) và Thiền Tông rồi sẽ lan truyền khắp cõi nước Trung Hoa.

Phần lớn theo truyền thống nghĩ rằng ngài Bát Nhã Đa La là nam giới cũng như các vị tổ sư Thiền khác. Nhưng một số nhà nghiên cứu Phật học thế kỷ 20 tìm ra một số dấu chỉ, cho thấy ngài Bát Nhã Đa La có thể là nữ giới. Tên của ngài là Prajnatara, là ghép từ tên hai vị nữ Bồ Tát — Prajnaparamita (Bát Nhã Ba La Mật Đa) và Tara (Đa La), cả hai vị đều được kính ngưỡng trong Phật Giáo Tây Tạng. Năm 2008, nhà sư Koten Benson (Viện trưởng Thiền Viện Lions Gate Buddhist Priory ở Canada) nêu ra nghi vấn rằng ngài Bát Nhã Đa La có thể là một phụ nữ, và vị nữ lưu này là Sư Trưởng của tông Sarvastivadin (Nhất Thiết Hữu Bộ). Nhà sư Benson nói rằng truyền thống khẩu truyền tại Kerala (một tiểu bang Ấn Độ, nơi Phật Giáo thịnh hành trước thế kỷ thứ 10) và truyền thống khẩu truyền trong Thiền Tông Đại Hàn (Korean Seon, hay Korean Zen Buddhism) nhìn ngài Bát Nhã Đa La là một phụ nữ, và chứng cớ khảo cổ mới tìm ở nam Ấn Độ xác nhận có hiện hữu của các Ni Sư truyền giáo nổi tiếng. Thế rồi, học giả Benson nêu nghi vấn, có thể truyền thống trọng nam tại Trung Quốc đã dần dần xóa đi hình ảnh phụ nữ khi nói tới Thầy của ngài Bồ Đề Đạt Ma, nhưng khi Thiền Tông truyền sang Đại Hàn vẫn còn ghi lời truyền khẩu rằng Bát Nhã Đa La là một Thiền Sư Ni.

Trong bản văn Shobogenzo (True Dharma Eye Treasury – Chánh Pháp Nhãn Tạng), tác phẩm viết trong thế kỷ 12 của Thiền Sư Nhật Bản Dogen, khi liệt kê thứ tự các vị tổ sư Thiền Tông, đã ghi rằng ngài Hannyatara (tên trong tiếng Nhật của ngài Bát Nhã Đa La) là phụ nữ trong chương 50.

Gần chúng ta nhất là bài viết nhan đề “Who Was Prajnatara?” (Ai là Bát Nhã Đa La?) trên tạp chí Lion’s Roar vào tháng 10/2018, tác giả là Geoffrey Shugen Arnold, vị Thiền Sư trụ trì của Thiền Viện Zen Mountain Monastery  tại núi Mt. Tremper, New York, và cũng là trụ trì của trung tâm Zen Center of New York City. Bài viết của nhà sư Geoffrey Shugen Arnold nêu rằng, đầu tiên ông chú ý là nhiều năm trước, qua một bài viết của một người nối pháp của Thiền Sư Ni Jiyu Kennett Roshi, vị sáng lập Thiền Viện Shasta Abbey. Khi Ni Sư Jiyu Kennett Roshi tu học bên Nhật Bản, thầy của Ni Sư là Koho Zenji kể cho Ni Sư nghe rằng có những Thiền Sư Ni trong dòng pháp trực tiếp của dòng này. Nhiều năm sau, Ni Sư Jiyu Kennett yêu cầu một trong các môn đệ của Ni Sư khảo cứu chuyện đó. Nghiên cứu của người này đã dẫn tới các văn bản cổ trong Thiền Tông Đại Hàn trong đó ngài Bát Nhã Đa La được mô tả là một phụ nữ, đồng thời tìm ra chi tiết khảo cổ cho thấy có truyền thống lịch sử và khẩu truyền của Phật Giáo từ Kerala ở phía nam Ấn Độ, nơi ngài Bát Nhã Đa La từng cư ngụ và được ghi nhớ trong lịch sử địa phương là một phụ nữ. Nhà sư Geoffrey Shugen Arnold đã viết thư cho nhiều học giả Phật Giáo để tìm hiểu chuyện này. Một người bác bỏ ngay. Nhưng một vị khác nói là có nghe lời đồn như thế, và nghĩ chuyện Bát Nhã Đa La là phụ nữ có thể là sự thật lịch sử, nhưng người ghi sử không nêu rõ yếu tố tính phái và rồi đời sau nghĩ rằng tất cả những vị không được ghi rõ tính phái chính là nam giới.

Rồi tới chúng ta, người học Phật tại Việt Nam, một cách tự động cũng nghĩ rằng Thầy của Bồ Đề Đạt Ma cũng là nam giới, kiểu như hình dung ra một ông sư già tên là Bát Nhã Đa La với ngôn phong kỳ bí và cách ngài dạy đạo cho Bồ Đề Đạt Ma cũng hẳn là siêu xuất ẩn mật. Thực tế, một vị tổ là nam hay nữ chỉ có ý nghĩa đối với các sử gia, ngoài ra chẳng có gì để bận tâm nhiều – vì tâm giải thoát vốn không chút gì nam hay nữ hay xanh đỏ tím vàng, vì tâm giải thoát bất khả định danh để gọi là Bắc truyền hay Nam truyền, và vì tâm giải thoát cũng không thể vướng chút gì để gọi là Ấn, Hoa, Việt, Nhật, Thái, Hàn, Mỹ, Pháp…

Ngài cũng là võ sư? Thế rồi ngài Bồ Đề Đạt Ma vào Trung Quốc hoằng pháp theo lời dạy của ngài Bát Nhã Đa La. Theo truyền thuyết, Bồ Đề Đạt Ma không chỉ truyền pháp Thiền Tông, mà còn dạy môn võ sau này gọi là Võ Thiếu Lâm. Theo Tự Điển Bách Khoa Mở (Wikipedia), thời điểm Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc cũng được kể dị biệt, một trong những thuyết nói rằng ông đến vào triều đại Lưu Tống (420-479) hay muộn hơn vào triều đại nhà Lương (502-557). Ngài chủ yếu hoạt động tại lãnh thổ của các triều đại Bắc Ngụy (386-534). Thời kỳ truyền bá của ngài khoảng vào đầu thế kỷ thứ 5. Ngài là Tổ thứ 28 và cuối cùng sau Phật Thích-ca Mâu-ni của Thiền Tông Ấn Độ và là Sơ tổ của Thiền Tông Trung Quốc.

Khi Bồ Đề Đạt Ma tới Trung Quốc, chúng ta có thể đoán lúc đó là thịnh thời của Phật Giáo. Vì lúc đó, tuy là có những lúc chiến tranh, nhà vua Lương Vũ Đế đã liên tục cho xây trong nước nhiều chùa chiền, bảo tháp. Như thế, có thể đoán rằng lúc đó người dân rủ nhau đi chùa đông ào ạt, và hẳn là tăng ni tu học sôi nổi. Khi tới nước khác hoằng pháp, trước tiên là nên gặp vua trước. May mắn, Bồ Đề Đạt Ma được giúp cho gặp vua Lương Vũ Đế. Thế rồi cuộc nói chuyện giữa vua Lương Vũ Đế và ngài Bồ Đề Đạt Ma trở thành một phần lịch sử quan trọng, cho thấy ngôn phong Thiền của ngài rất lạ tai với nhà vua (và hẳn cũng là rất lạ tai với hầu hết Phật Tử). Đoạn đối thoại giữa vua Vũ Đế và Bồ Đề Đạt Ma như sau, theo bản dịch trong sách “33 Vị Tổ Ấn Hoa” của Hòa Thượng Thích Thanh Từ.

Vua Vũ Đế hỏi, “Trẩm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ Tăng ni, không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng?”
Ngài Bồ Đề Đạt Ma đáp, “Đều không có công đức.”
“Tại sao không có công đức?”
“Bởi vì những việc ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.”
“Thế nào là công đức chơn thật?”
“Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu.”
“Thế nào là thánh đế nghĩa thứ nhất?”
Rỗng rang không thánh.”
“Đối diện với trẩm là ai?”
Không biết.”

Ghi nhận rằng đối thoại này cho thấy cách truyền pháp về sau của ngài Bồ Đề Đạt Ma. Sau đây là trích bản Anh dịch của Jeffrey L. Broughton.

Emperor Wu: “So what is the highest meaning of noble truth?”
Bodhidharma: “There is no noble truth, there is only emptiness.”
Emperor Wu: “Then, who is standing before me?”
Bodhidharma: “I know not, Your Majesty.”

Nếu nói cho hợp tai vua, hẳn là nên dựa theo Kinh Phật để nói về Tứ Thánh Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo). Thế mà sư lại dám bảo là thực sự không có Thánh Đế nào, mà chỉ có cái rỗng rang vô thánh. Cho nên, nhà sư mới bị vua lạnh nhạt. Thiệt là đáng tiếc, vì vua Vũ Đế rất mực mộ đạo, đã bốn lần xuất gia ngắn hạn. Tìm đâu ra một ông vua xuất gia tới bốn lần, dù là xuất gia ngắn hạn? Có lẽ ngài Bồ Đề Đạt Ma biết vua thuần thành mộ đạo, từng mấy lần xuất gia ngắn hạn, cho nên mới đem diệu lý rất mực vi diệu ra nói như thế. Thật tiếc. Cũng như thời hiện nay tại Việt Nam, trong khi chùa cao, tượng lớn đang được xây dựng ào ạt, nhỡ có sư nào nói rằng như thế chỉ vô ích thôi, thế nào cũng không được hoan hỷ.

Thế rồi, sử sách đời sau kể rằng Bồ Đề Đạt Ma đi tới Chùa Thiếu Lâm. Sách kể rằng, hoặc là ngài bị từ chối, không cho vào, hoặc là đón nhận vào thời gian ngắn rồi trục xuất ra, Bồ Đề Đạt Ma sống trong một hang động gần đó, nơi ngài “nhìn vào vách trong 9 năm, không nói gì trong toàn bộ thời gian này.” (Theo Boyuan Lin, tác phẩm Trung Quốc Vũ Thuật Sử, in năm 1966 bởi Ngũ Châu Xuất Bản Xã, Đài Bắc).

Đó là một huyền thoại khả vấn. Ngồi một chỗ, không nói gì trong 9 năm, hẳn là không đúng ý ngài là muốn hoằng pháp. Thêm nữa, bởi vì ngài theo truyền thuyết cũng là một võ sư, nên hẳn là chuộng sự vận động để giữ gìn sức khỏe. Người đời thường mà ngồi một chỗ, không đứng dậy một tháng hẳn là gân xương đều có thể hỏng. Những chi tiết này không quan trọng, có thể là do đời sau cường điệu hóa. Bởi vì một sách khác, ghi là Bồ Đề Đạt Ma ngủ gục 7 năm trong 9 năm nhìn vách, nên tự cắt mi mắt để khỏi ngủ gục, theo tác giả Jack Maguire trong tác phẩm biên khảo Essential Buddhism. Cũng là một huyền thoại khả vấn. Thế rồi mi mắt của ngài rơi xuống đất, mọc lên thành cây trà; đời sau Thiền sinh có thói quen uống trà để tỉnh thức trong khi tọa thiền.

Thế rồi, theo sách khác kể, sau 9 năm ngồi ngó vách ngoài hang động, Bồ Đề Đạt Ma được các sư mời vào Chùa Thiếu Lâm để dạy đạo và dạy võ. Lại có huyền thoại rằng ngài viên tịch, trong tư thế ngồi ở hang động. Lại có huyền thoại rằng Bồ Đề Đạt Ma không dạy gì cho tới khi gặp người sẽ trở thành môn đệ giỏi của ngài là Huệ Khả (Huike). Một truyền thuyết nói rằng Huệ Khả quỳ trong tuyết lạnh để xin Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp, và để chứng tỏ nhiệt tâm cầu pháp, Huệ Khả đã tự cắt cánh tay trái. Truyện kể cường điệu thôi, thực tế không thể như thế. Theo truyền thuyết khác, Bồ Đề Đạt Ma trên đường biển từ Ấn Độ sang Trung Hoa, đã ghé Indonesia, truyền dạy Kinh Đại Thừa và võ thuật, môn võ đó có tên là Silat, bây giờ tên phổ biến gọi là võ Pencak Silat. Truyền thuyết khác kể rằng Bồ Đề Đạt Ma sống đến 150 tuổi, cuối cùng bị đầu độc và được an táng ở Hồ Nam. Sau đó một vị tăng đi hành hương ở Ấn Độ về gặp Bồ Đề Đạt Ma trên núi Hùng Nhĩ. Bồ Đề Đạt Ma, tay cầm một chiếc dép, cho biết mình trên đường về Ấn Độ và Trung Quốc sẽ tiếp nối dòng Thiền của mình. Về tới Trung Quốc vị tăng này vội báo cho đệ tử, đệ tử mở áo quan ra thì không thấy gì cả, chỉ còn một chiếc dép. Vì tích này, tranh tượng của Bồ Đề Đạt Ma hay được vẽ vai vác gậy mang một chiếc dép. Một truyền thuyết kể rằng trước khi Bồ Đề Đạt Ma về Ấn Độ đã gọi các đệ tử lớn – Huệ Khả, Đạo Dục, Ni Tổng Trì, Đạo Phó – tới khảo sát chỗ sở đắc.

Trong sách đã dẫn trên, HT Thích Thanh Từ kể về cách ngài Bồ Đề Đạt Ma cho học trò làm bài thi ra trường, trích:

“Ở Trung-Hoa gần chín năm, Ngài thấy cơ duyên đã đến, liền gọi đồ chúng hỏi: Giờ ta trở về sắp đến. Các ngươi mỗi người nên nói chỗ sở đắc của mình.
. Đạo-Phó ra thưa: Theo chỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đây là dụng của đạo; Ngài bảo: Ngươi được phần da của ta.
. Bà ni Tổng-Trì ra thưa: Nay chỗ hiểu của con, như Tổ A-Nan thấy nước Phật A-Súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại; Ngài bảo: -Ngươi được phần thịt của ta.
. Đạo-Dục ra thưa: Bốn đại vốn không, năm ấm chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể được; Ngài bảo: Ngươi được phần xương của ta.
. Đến Huệ-Khả bước ra đảnh lễ Ngài, rồi lui lại đứng yên lặng; Ngài bảo: Ngươi được phần tủy của ta
.”

Đọc các đoạn trên, có thể đoán rằng ngài Bồ Đề Đạt Ma trước khi xét điểm học trò hẳn là đã hướng dẫn môn đệ trong nhiều trường hợp, đã dạy nhiều bài học qua nhiều năm. Tới đây, cũng có thể có một câu hỏi: Đức Phật Thích Ca xét điểm thi ra trường của môn đệ ra sao?

Đây cũng là chỗ để chúng ta chú ý, bởi vì tà sư khi xuất hiện luôn luôn tự xưng là đại pháp vương hay vô thượng sư. Chúng ta không có mắt trí tuệ, cũng không có tha tâm thông, nên chỉ có thể dựa vào kinh để đối chiếu ngôn ngữ để khỏi dính vào bẫy tà kiến của  tà sư.

Trong Kinh AN 6.49, nhà sư Khema tới thưa với Phật: “…Vị ấy không nghĩ rằng: “Có người tốt hơn ta” hay “Có người giống như ta” hay “Có người hạ liệt hơn ta”…” Kinh ghi thêm, “Tôn giả Khema nói như vậy, Bậc Ðạo Sư chấp nhận.” Rồi ngài Khema rời pháp hội. Chặp sau, nhà sư Sumana cũng tới gần Đức Phật và nói như thế. Bản dịch của HT Thích Minh Châu viết, “Tôn giả Sumana nói như vậy, Bậc Ðạo Sư chấp nhận.” Rồi ngài Sumana rời pháp hội.

Kinh AN 6.49 ghi rằng (bài kệ cuối kinh nơi đây sẽ ghi theo dạng văn xuôi cho dễ đọc): “Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả Khema và Tôn giả Sumana ra đi không bao lâu, liền bảo các Tỷ-kheo: Như vậy, này các Tỷ-kheo, các thiện nam tử nói lên chánh trí, có nói đến mục đích, nhưng không đề cập đến tự ngã. Tuy vậy, ở đây một số kẻ ngu nói lên chánh trí một cách ngạo mạn đắc chí. Họ về sau rơi vào nguy hại.

Không thắng, không hạ liệt, Không ai đồng đẳng Ta, Những tư tưởng như vậy, Không chi phối các vị. Sanh khởi đã chấm dứt, Phạm hạnh được viên thành, Họ lìa bỏ kiết sử, Hoàn toàn được giải thoát.” (1)

Nghĩa là, người đã giải thoát sẽ thường trực nhìn thấy “không ta” và không hề thấy có cái ta nào để đối chiếu là “ta hơn, hay ta thua, hay ta bằng người.

Tuy nhiên, không dễ đánh giá chính xác người khác tu tới cỡ nào, bậc nào. Đức Phật dạy trong kinh AN 4.192 rằng phải sống gần nhau trong thời gian dài, mới có thể hiểu phần nào trình độ giới định huệ của người ở gần mình: “…này các Tỷ-kheo, người này do cộng trú với người kia, biết như sau: “Trong một thời gian dài, vị Tôn giả này không làm giới bị bể vụn, không làm giới bị cắt xén, không làm giới bị vết nhơ, không làm giới bị chấm, đen, làm việc có liên tục, hạnh kiểm có liên tục trong các giới…” (2)

Do vậy, đánh giá vị tăng này, vị ni kia, cư sĩ nọ tu học tới bậc này hay bậc kia là chuyện nhiều phần sẽ sai lầm, và hẳn là không thích nghi với người thường trực không nhìn thấy có “cái ta, cái tôi, cái người” nào để đối chiếu, so sánh. Thái độ này cũng để cảnh giác những người dễ tin vào các tà sư đầy dẫy thời nay.

Hãy suy nghĩ thêm thế này: siêu đẳng như ngài Sariputta vẫn không nhận ra ngài Bhaddiya là một bậc A La Hán, thì đời thường như chúng ta làm sao dám đánh giá người khác thế này hay thế kia. Kinh Ud 7.2 ghi rằng ngay như một vị đại A La Hán như ngài Sariputta cũng không nhận ra rằng ngài Bhaddiya the Dwarf đã là một bậc A La Hán siêu xuất. Do vậy ngài Sariputta đã “dùng nhiều phương pháp – giảng dạy, thúc giục, khích lệ và khuyến tấn ngài Bhaddiya the Dwarf bằng pháp thoại liên tục vì nghĩ rằng ngài Bhaddiya vẫn còn là kẻ hữu học.” Đức Phật thấy thế mới can ngài Sariputta rằng thôi nhé, đừng dạy nữa chi cho mệt, vì Bhaddiya đã qua bờ kia rồi, rằng dòng sông tham ái đã khô rồi, không còn gì lưu chảy nữa. (3)

Tới đây, chúng ta nêu câu hỏi: có thật Bồ Đề Đạt Ma đã gặp và nói chuyện với Lương Vũ Đế hay không? Theo truyền thuyết, Bồ Đề Đạt Ma gặp vua Vũ Đế khoảng năm 520. Cuộc đối thoại nghe rất suông sẻ, như dường ngài Bồ Đề Đạt Ma đã học nói tiếng Trung Hoa nhiều năm mới giỏi như thế. Viết thì có thể, nhưng nói lưu loát là chuyện khó. Các nhà sư Việt Nam bây giờ đã đi khắp toàn cầu, hiển nhiên biết rằng trở ngại ngôn ngữ rất khó vượt qua, nhất là đối với người học ngoại ngữ khi lớn tuổi. Chuyện Bồ Đề Đạt Ma gặp vua Vũ Đế được kể lần đầu tiên trong sách là khoảng năm 758 do ngài Thần Hội (Shen-hui), học trò của ngài Huệ Năng (Huineng), ghi vào sách. Nghĩa là, từ khi gặp tới khi ghi vào sách là hơn 230 năm. Trí nhớ trải qua mấy đời kể lại. Dĩ nhiên, cũng không có chứng cớ để nói rằng không có chuyện đối thoại như thế.

Theo các sách ghi lại, đúng là hai vị có gặp nhau, nhưng đối thoại có y như kể lại trong Thiền sử như thế cũng là khả vấn. Dù vậy các Thiền sư có lý lẽ riêng: mỗi người chúng ta có thể tự nhìn lại thân mình, cũng là ngũ uẩn, nhưng không phải rằng chính sự hiện diện của chúng ta trong cõi này cũng là huyền thoại hay sao. Thân này có thật sao? Tâm này có thật sao? Thân tâm vốn không thật, không hư, không một pháp có thể nói, vì thân tâm mình sinh diệt chảy xiết từng khoảng khắc, làm sao nói được là có hay không có, hữu với vô đều bất khả thuyết, thôi thì đành nín bặt. Bởi vì trong tận cùng, không hề có gì gọi được là một vật, tất cả thế giới trong và ngoài chúng ta là một tiến trình lưu chảy không ngưng nghỉ. Lấy gì để chỉ ra là có vật này, hay vật kia? Các tổ sư ghi lại trong tắc 33 của Vô Môn Quan là “Phi tâm, phi Phật” (Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật) vì chẳng hề thực sự có một pháp có thể chỉ ra để định danh. Ngài Vô Môn (1183 – 1260) bình luận ở tắc 33 rằng đây là “gan ruột của thiền” và hễ thấu suốt điểm này thì là tu Thiền xong rồi. Tắc 33 liên hệ tắc 30 của sách này, là “Tức tâm, tức Phật” (Ngay tâm này, tức là Phật); bởi vì lìa tâm không thể có Phật; ngài Vô Môn bình luận rằng hiểu tận tường như thế thì sẽ có thể mặc áo, ăn cơm, nói và làm y như Phật, nhưng sẽ có nhiều học nhân bị vướng (hiểu là, không hay bằng câu “phi tâm, phi Phật”).

Theo truyền thuyết, Bồ Đề Đạt Ma để lại tác phẩm Thiếu Thất Lục Môn, được ngài Trúc Thiên dịch là Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất. Trong này chia làm 6 cửa vào đạo: (1) Tâm kinh tụng: tụng về bộ Bát nhã Tâm kinh; (2) Phá tướng luận: luận về phép phá tướng; (3) Nhị chủng nhập: hai đường vào đạo; (4) An tâm pháp môn: phép an tâm; (5) Ngộ tánh luận: luận về phép thấy tánh thành Phật; (6) Huyết mạch luận: luận về mạch máu của đạo Phật. Hòa Thượng Thích Thanh Từ cũng đã soạn tác phẩm “Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất Giảng Giải,” và dùng làm tài liệu dạy thiền.

Có một thắc mắc: Khi Vũ Đế hỏi ý nghĩa cao nhất của Thánh Đế, hẳn là mong đợi một câu trả lời nào chăng? Theo lệ thường, ai cũng nghĩ rằng có Tứ Thánh Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo), vậy thì ý nghĩa tột cùng Thánh Đế là gì? Câu hỏi không có ý hỏi thứ tự, vì nếu hỏi thứ tự, thì trả lời sẽ là Khổ Đế là Thánh Đế thứ nhất. Hiển nhiên, Vũ Đế không hỏi dễ dàng như thế. Câu hỏi về Thánh Đế ý nghĩa tột cùng hẳn là hàm ý khác. Nơi đây, chúng ta chỉ có thể dựa vào câu trả lời của Bồ Đề Đạt Ma mà đoán ra ý của người hỏi.

“Thế nào là thánh đế nghĩa thứ nhất?”

Rỗng rang không thánh.”

Tức là, vốn là Không, là rỗng rang. Tư tưởng rất Thiền Tông: vốn là Không, vốn là không thánh, cũng là không phàm. Chúng ta tìm được nhiều câu trả lời như thế trong nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời (4), nghĩa là những kinh Đức Phật cho chư tăng tụng hàng ngày trong các năm đầu hoằng pháp. Có thể gọi rằng nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời (KNTST) là Thiền Đốn Ngộ, vì không có chỗ nào để bấu víu. Và đọc kỹ nhóm kinh này, trong tận cùng là chỉ thẳng vào thực tướng của tâm. Kinh Sn 5.15 (Mogharaja-manava-puccha Các Câu Hỏi của Mogharaja) trong nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời ghi lời Đức Phật dạy rằng hễ nhìn thấy nội xứ và ngoại xứ rỗng rang Không tánh thì là giải thoát, trích:

1119. [Đức Phật] Hỡi Mogharaja, hãy luôn luôn tỉnh thức và nhìn thế giới như rỗng rang, với cái nhìn về tự ngã đã bứng gốc, người đó sẽ vượt qua sự chết. Thần Chết không thể thấy người đã nhìn thế giới này như thế.(4)

Nghĩa là, Đức Phật nói rằng nhìn ra thực tướng thế giới trong và ngoài đều là không, thì không cần tu gì hết. Bởi vì đã vô ngã thì lấy ngã nào mà tu nữa. Như vậy, câu hỏi tới đây là, như thế nào để an trú trong Không tánh?

Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm EA 45.6, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, giải thích rằng chỉ cần không dính (vô sở trụ) gì vào tứ tướng (ngã, nhân, thọ mạng, chúng sinh) thì sẽ thấy hành rỗng rang, và là xong, trích:

Phật bảo Xá-lợi-phất: “Lành thay, lành thay, như Xá-lợi-phất mới có thể an trú nơi Không tam-muội. Vì sao vậy? Trong các tam-muội, Không tam-muội là tối thượng đệ nhất. Tỳ kheo an trú Không tam-muội không chấp trước ngã, nhân, thọ mạng, cũng không thấy có chúng sinh, cũng không thấy có bản mạt của các hành. Do không thấy có, nên không tạo gốc rễ của hành. Do không có hành nên không còn tái sinh đời sau…  “Xá-lợi-phất, do phương tiện này mà biết rằng Không tam-muội là tối đệ nhất trong các tam-muội. Vua trong các tam-muội là Không tam-muội vậy.” (5)

Bởi vì tất cả do duyên sinh, nên không thể gọi là có một vật gì, và là từ một nguyên nhân nào, y hệt như tiếng đàn khởi lên từ nhiều duyên, và chẻ ra trăm mảnh cây đàn cũng không tìm được cái gì là tiếng đàn từ đâu tới và sẽ về đâu. Thiền Tông là sống thường trực trong nhận biết này và không cần tu gì khác. Kinh Tạp A Hàm SA 335, bản dịch hai Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng, trích:

Thế nào là kinh Đệ nhất nghĩa không? Này các Tỳ-kheo, khi mắt sanh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. Như vậy mắt chẳng thật sanh, sanh rồi diệt mất; có nghiệp báo mà không tác giả.” (6)

Đối thoại giữa vua Lương Vũ Đế và ngài Bồ Đề Đạt Ma còn câu này:

“Đối diện với trẩm là ai?”
Không biết.”

Chúng ta có thể đoán rằng Vua đã được báo cáo từ lâu về vị sư Ấn Độ kỳ lạ. Bây giờ nghe nói năng kỳ lạ, Vua muốn hỏi trong nỗi ngờ vực, không rõ đây là thánh hay phàm, hay là bất kỳ những gì ngoài các bản báo cáo của các quan. Bồ Đề Đạt Ma trả lời: “Không biết.” Trong Kinh Luận nhà Phật, có nhiều chỗ ghi câu hỏi về chữ “ai đây, ai đó, ai vậy” kìa.

Kinh Phật ghi lại rất chi tiết về cách nhìn về chữ “ai” bởi vì hễ khởi tâm là dễ vướng vào suy nghĩ có tôi, có ta, có người. Kinh AN 4.36 ghi đoạn đối thoại, Thiên tử Dona hỏi rằng Đức Phật có phải là vị trời, hay là càn thát bà, hay là dạ xoa (thần hộ pháp), hay là người… thì Đức Phật nói rằng ngài là Phật. Đoạn kinh này nghe như đang nói về Phật Tánh, hiện khắp các cõi nhưng vẫn là vô lậu, một khái niệm về sau được nhiều luận sư Đại Thừa nói tới:

“—Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là chư Thiên, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt đứt từ gốc rễ, được làm thành như thân cây ta-la, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Này Bà-la-môn, đối với những người chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ta có thể là Càn-thát-bà, Ta có thể là Dạ-xoa, Ta có thể là Người, với các lậu hoặc đã đoạn tận, được chặt dứt từ gốc rễ, được làm thành như thân cây ta-la, được làm cho không thể hiện hữu, được làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Ví như, này Bà-la-môn, bông sen xanh, hay bông sen hồng, hay bông sen trắng, sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên khỏi nước, và đứng thẳng không bị nước thấm ướt. Cũng vậy, này Bà-la-môn sanh ta trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Này Bà-la-môn, Ta là Phật, hãy như vậy thọ trì.” (7)

Không thấy mình là ai, dù là sa môn hay bà la môn… Trong một Kinh khác, Đức Phật nói rằng có một cách nhận ra người giải thoát là khi thấy người Bà La Môn nào nói rằng tôi không là ai, không ở đâu, không phải sa-môn, không phải Bà La Môn thì đó là thắng tri sự thật trong pháp tu “không có sự vật gì” (HT Minh Châu dịch), hay là dịch theo Bhikkhu Sujato là “they simply practice the path of nothingness, having had insight into the truth of that” (họ đơn giản tu theo lối không hề có một pháp nào, nhìn vào sự thật của thực tướng. Kinh AN 4.185 ghi lời Đức Phật, bản dịch của HT Minh Châu:

Lại nữa, này các du sĩ, người Bà-la-môn nói như sau: “Ta không là bất cứ ai, bất cứ thuộc ai, bất cứ là gì. Trong ấy, không có cái gì được gọi là của ta, bất cứ ở đâu, bất cứ là gì”. Người Bà-la-môn nói như vậy là nói sự thật, không nói láo. Do vậy, vị ấy không nghĩ đến “Sa-môn”, không nghĩ đến “Bà-la-môn”, không nghĩ đến: “Ta hơn (các người khác)”, không nghĩ đến: “Ta bằng (các người khác)”, không nghĩ đến: “Ta là hạ liệt”. Lại nữa do thắng tri sự thật hàm chứa ở đấy, (trong lời nói ấy) người ấy thực hành con đường không có sự vật gì.” (8)

Như thế, làm sao nói được rằng tôi với người là gì, vì qua mắt nhìn của người giải thoát thì không thấy gì gọi được là sanh hay không sanh, sinh hay vô sinh, hữu hay vô, không thấy gì gọi được là Đông Tây Nam Bắc, như trong Kinh SA 962, bản dịch hai thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng:

“…đối với tất cả kiến, tất cả thọ, tất cả sanh, tất cả kiến chấp về ngã, ngã sở, ngã mạn kết sử, đều khiến cho đoạn diệt, tịch tịnh, mát mẻ, chân thật. Đối với Tỳ-kheo giải thoát tất cả như vậy, sanh không đúng, không sanh cũng không đúng.” (9)

Thêm một câu chuyện về chữ “ai” trong nhà Phật. Trong kinh SN 12.12, một lần Tôn giả Moliya-Phagguna hỏi Đức Phật rằng ai ăn thức thực, ai cảm xúc, ai cảm thọ, ai khát ái, ai chấp thủ… lần lượt Đức Phật nói rằng các câu hỏi đó đều không thích hợp, vì tất cả đều là duyên sanh, không có cái gì gọi là ai, trích bản dịch của HT Minh Châu:

Tôn giả Moliya-Phagguna bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, ai ăn thức thực?

Thế Tôn đáp: Câu hỏi ấy không thích hợp. Ta không nói: “Có ai ăn”. Nếu Ta nói: “Có kẻ ăn”, thời câu hỏi: “Có ai ăn” là câu hỏi thích hợp. Nhưng Ta không nói như vậy. Và vì Ta không nói như vậy, nếu có ai hỏi Ta: “Bạch Thế Tôn, thức thực là cho ai?”, thời câu hỏi ấy thích hợp. Ở đây, câu trả lời thích hợp là như sau: “Thức thực là duyên cho sự sanh thành, cho sự tái sanh trong tương lai. Khi cái ấy hiện hữu, có mặt thời sáu xứ có mặt. Do duyên sáu xứ, xúc có mặt”…” (Tuần tự với ai cảm xúc, ai cảm thọ, ai khát ái, ai chấp thủ) (10)

Tới đây, chúng ta có thể nêu câu hỏi: giả sử Vua Lương Vũ Đế ngộ được ý chỉ ngay khi nghe mấy câu nói của ngài Bồ Đề Đạt Ma, và biết rằng pháp Thiền này phải tu kiểu y hệt như không ta, không người, không tâm, không Phật và không một pháp nào. Như thế, có đủ chưa? Chưa. Kinh dạy rằng cũng y hệt như áo giặt sạch xong, nhưng áo vẫn còn có mùi, và nếu muốn hết mùi trần gian thì cần phải dùng các thứ hương thơm xông ướp (chứng ngộ vô ngã, nhưng vẫn còn “dư tàn ngã tùy miên— underlying tendency towards ‘I am’.). Nghĩa là, nguyên tắc Thiền Đốn Ngộ là: ngộ trước, rồi tu sau. Ý chỉ Thiền Tông như thế đã hiển lộ trong Kinh SA 103. Thêm nữa, tu pháp thấy tất cả pháp vô ngã sẽ không chỉ giải thoát, mà còn có thể chữa được bệnh thân. Dĩ nhiên, chữa được một số bệnh thân, không thể nói rằng tu là sẽ chữa hết các bệnh nan y như ung thư, vì còn yếu tố bệnh nghiệp nữa.

Nơi đây, chúng ta trích Kinh SA 103 bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ và Đức Thắng, nói rằng ngài Sai-ma bệnh thê thảm, đã liên tục thấy vô ngã, thấy vô ngã sở nhưng dư tàn ngã tùy miên vẫn còn (như áo sạch rồi, nhưng mùi hôi còn) và khi nói pháp cho các sư khác xong, vì không khởi lậu hoặc nên được giải thoát. Kinh viết:

Tỳ-kheo Sai-ma nói với Tỳ-kheo Đà-sa rằng: “Bệnh của tôi không bớt, thân không được an ổn, các thứ khổ bức bách càng tăng thêm, không cứu nổi. Giống như người có nhiều sức mạnh bắt lấy người gầy yếu đuối, dùng dây trói chặt vào đầu cùng hai tay, rồi siết chặt làm cho đau đớn vô cùng. Hiện tại sự thống khổ của tôi còn hơn cả người kia nữa. Giống như tên đồ tể dùng dao bén mổ bụng bò lấy nội tạng nó ra; sự đau đớn bụng con bò như thế nào có thể chịu nổi, còn hiện tại sự đau đớn bụng của tôi, hơn cả sự đau của con bò kia. Như hai lực sĩ bắt một người yếu đuối treo lên trên lửa rồi đốt hai chân họ, hiện nay hai chân của tôi còn nóng hơn người kia.”

… Tỳ-kheo Sai-ma lại nói: “Vậy thì ngã cũng như vậy. Chẳng phải sắc là ngã, ngã không lìa sắc và chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức là ngã, ngã không lìa thức; nhưng đối với năm thọ ấm, tôi thấy không phải ngã, không phải ngã sở, mà đối với ngã mạn, ngã dục, ngã sử tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm tởm, chưa nhổ ra hết.

“Các Thượng tọa hãy nghe tôi nói thí dụ, vì người trí nhờ thí dụ mà được hiểu rõ. Giống như chiếc áo của người nhũ mẫu giao cho người giặt. Họ giặt bằng nước tro, tuy có sạch bụi nhơ, nhưng vẫn còn có mùi. Nếu muốn hết mùi này thì cần phải dùng các thứ hương thơm xông ướp. Cũng vậy, đa văn Thánh đệ tử xa lìa năm thọ ấm, quán sát chân chánh rằng không phải ngã, không phải ngã sở, có thể đối với năm thọ ấm, ngã mạn, ngã dục, ngã sử chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm chán, nhưng đối với năm thọ ấm sau đó vị ấy tư duy thêm nữa, quán sát sự sanh diệt của chúng, rằng: ‘Đây là sắc; đây là sự tập khởi của sắc này, đây là sự diệt tận của sắc này. Đây là thọ, tưởng, hành, thức này, đây là sự tập khởi… thức này và sự đoạn tận của… thức này cũng như vậy. Đối với năm thọ ấm khi đã quán sát sự sanh diệt của chúng như vậy rồi, thì ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tất cả đều được tiêu trừ. Đó gọi là quán sát chân chánh chân thật.”

Khi Tỳ-kheo Sai-ma nói pháp này, thì các vị Thượng tọa xa lìa được trần cấu, được trong sạch mắt pháp. Tỳ-kheo Sai-ma nhờ không khởi các lậu hoặc, nên tâm được giải thoát. Vì được an vui lợi ích nơi chánh pháp nên những bệnh của thân tất cả đều được tiêu trừ.” (11)

Nghĩa là, chữa được cả bệnh thân và tâm. Nơi đây, chúng ta cũng cần phải tự cảnh giác, rằng tuy nói rằng thông suốt tất cả lời dạy trong kinh, dù đã chứng ngộ tâm giải thoát, nhưng sức mạnh của vô minh từ trăm kiếp nghìn đời vẫn có thể trì kéo chúng ta trở lại, nếu không giữ được thực sự tinh tấn. Trường hợp ngài Cù Đề Ca cho thấy cảnh giác này: đã chứng ngộ tâm giải thoát nhưng vẫn nhiều lần bị thoái chuyển. Kinh SA 1091, bản dịch hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng trích như sau:

Một thời Đức Phật ở nơi thất đá, núi Tỳ-bà-la trong rừng Thất diệp thọ, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tôn giả Cù-đề-ca cũng ở thành Vương xá, trong hang Đá đen bên sườn núi Tiên nhân, một mình tư duy, tu hạnh không phóng dật, tự được nhiều lợi ích, tự chứng ngộ tâm giải thoát nhất thời, nhiều lần bị thoái chuyển. Lần thứ nhất, thứ hai, ba, bốn, năm, sáu, trở đi, trở lại; sau khi tự thân tác chứng tâm giải thoát nhất thời, chẳng bao lâu lại thoái chuyển.

Tôn giả Cù-đề-ca tự nghĩ: ‘Một mình ta ở chỗ vắng tư duy, hành không phóng dật, tinh tấn tu tập để tự được lợi ích, khi tự thân chứng ngộ tâm giải thoát nhất thời, mà nhiều lần lại còn thoái chuyển, cho đến sáu lần vẫn còn thoái chuyển lại. Bây giờ, ta nên dùng đao tự sát chớ để cho thoái chuyển lần thứ bảy.’…” (12)

Câu trả lời “Không biết” của ngài Bồ Đề Đạt Ma lại mang nhiều nghĩa. Nếu chúng ta để ý, trong khi chúng ta một cách tỉnh thức làm toán, vẽ tranh, cuốc đất… sẽ thấy có nhiều khoảng thời gian không hề có niệm tham sân si nào khởi lên trong tâm, chính những lúc này thời gian như biến mất. Chính cái tỉnh thức như thế không có hiện tướng nào về một “ngã tướng” nào. Chính những khoảnh khắc này có thể gọi là “không biết” – hay đơn giản là sống với “tâm không biết” vì tâm này là cái vô danh, cái không hình tướng, cái unknown chưa từng hiện ra và đang hiện ra từng khoảnh khắc trong tâm. Nhưng khi chúng ta suy tính rằng làm xong bài toán này sẽ trúng giải thưởng, vẽ tranh kia sẽ bán được nhiều ngàn đôla, cuốc khoảnh đất nọ và hy vọng đào trúng hũ vàng… thì lúc đó ngã tướng hiện ra trong tâm, và lúc đó thời gian hiện ra, làm sốt ruột hơn, thúc giục chúng ta mưu tính hơn. Đó là khi thấy chỉ là thấy, và nghe chỉ là nghe, thì không còn gì hiện lên trong tâm để gọi là quá khứ hay hiện tại hay vị lai. Chính “tâm không biết” là cái tâm trước khi niệm khởi, khi nhìn vào tâm khi niệm chưa khởi.

Sống với “tâm không biết” cũng là một chìa khóa của Thiền Tông. Chữ xưa có nơi gọi là vô tâm, có nơi gọi là vô niệm và nhiều chữ rắc rối khác. Chúng ta có thể tiếp cận một cách đơn giản bất kỳ lúc nào, hễ nói lên rằng “Không biết” thì ngay khi đó, thấy và nghe dứt bặt mọi ưu sầu lo nghĩ, khoảnh khắc tỉnh thức này là nhìn vào một cái tâm không có tên gọi, không dấy chút niệm tham sân si nào. Cuộc đối thoại của ngài Bồ Đề Đạt Ma và vua Vũ Đế cũng là một dấu chỉ để chúng ta hiểu về sau, ngài Bồ Đề Đạt Ma chọn Tâm Kinh làm cửa đầu tiên vào đạo trong sách Thiếu Thất Lục Môn. Nhìn cho tận cùng, không thể nói rằng chỉ một cửa hay hai cửa, hay sáu cửa vào đạo. Bởi vì Đức Phật dạy rất nhiều cửa vào đạo. Nhiều kinh nói chỉ cần niệm vô thường, hoặc niệm vô ngã, hoặc niệm tử (sự chết), hoặc niệm thân bất tịnh (để xả ly). hoặc niệm hơi thở, hoặc niệm thân, hoặc tứ niệm xứ, và nhiều nữa… nhưng tất cả đều dựa vào tâm. Kinh nói, chỉ cần ly tham là đắc quả Bất Hoàn (không trở lại cõi này). Trong Luận Phá Tướng, ngài Bồ Đề Đạt Ma nói rằng cái tâm vô minh có 84,000 phiền não chủ yếu là từ ba độc làm gốc, và ba độc chính là tham sân si. Như thế, nếu chứng ngộ được tâm giải thoát xong, thì thấy nghe hay biết đều là giải thoát, và đó là 84,000 cửa vào đạo, còn gọi là tám vạn bốn ngàn pháp môn.

Tới đây, chúng ta tóm tắt về các ý trong Tâm Kinh để thảo luận: năm uẩn đều là không. Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Tướng không của các pháp chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt; trong cái không đó, không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh, mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.

Sau khi kinh nói năm uẩn là không, rồi nói chi tiết sắc thọ tưởng hành thức là không, và nói chiều ngược lại. Tâm Kinh nói về chữ sắc trước tiên, vì sắc là kinh nghiệm trực tiếp của chúng ta (sắc gồm: sắc thanh hương vị xúc pháp – tức là, sắc gồm: cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được chạm xúc, cái được tư lường).

Kinh Pháp Cú, bài Kệ 170, bản dịch HT Minh Châu viết: “Hãy nhìn như bọt nước, Hãy nhìn như cảnh huyễn! Quán nhìn đời như vậy, Thần chết không bắt gặp.” Nghĩa là, nhìn thế giới này (tất cả những gì được thấy, được nghe…) đều như bọt nước, như huyễn ảo. Tức là: sắc thọ tưởng hành thức đều là không (hiểu không nơi đây theo nghĩa: thực tướng là vô tướng, là không tướng).

Tương tự, Đức Phật dạy trong Kinh SN 22.95, bản dịch HT Minh Châu: “Do vị Tỷ-kheo nhìn chuyên chú, như lý quán sát sắc, sắc ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng. Làm sao, này các Tỷ-kheo, lại có lõi cứng trong sắc được? Ví như, này các Tỷ-kheo, trong mùa thu, khi trời mưa những giọt mưa lớn, trên mặt nước, các bong bóng nước hiện ra rồi tan biến. Một người có mắt nhìn chuyên chú, như lý quán sát nó, bong bóng nước ấy hiện rõ ra là trống không, hiện rõ ra là rỗng không, hiện rõ ra là không có lõi cứng… [tương tự với thọ, tưởng, hành, thức]” (13)

Trong kinh vừa dẫn, Đức Phật dạy pháp quán như huyễn: “Sắc ví với đống bọt, Thọ ví bong bóng nước, Tưởng ví ráng mặt trời, Hành ví với cây chuối, Thức ví với ảo thuật… Nếu như vậy chuyên chú, Như lý chơn quán sát, Như lý nhìn các pháp, Hiện rõ tánh trống không.”

Trong thực tiễn đời thường, chúng ta có thể kinh nghiệm về tướng không của các pháp. Hãy hình dung thế này: chúng ta đứng nơi sân, nơi vườn, nơi góc núi… thì đột nhiên mưa gió ập tới, trước mắt là những giọt mưa bay ào ạt, bên tai là tiếng gió gào, cây lá xào xạc… cái được cảm thọ là lạnh vì mưa. Thế rồi bất ngờ mưa tạnh, trước mắt hiện ra không mưa, bên tai vắng bặt tiếng gió, tiếng lá. Đó là những cái được thấy, được nghe trở thành cái tướng không trước mắt, bên tai. Y hệt như mây tan thì bầu trời mênh mông hiện ra. Nhưng như thế, cái không đó vẫn là do duyên mà có, vì là cái không (không mưa, không gió) đối với cái có (có mưa, có gió); cái không này có thể chuyển thành cái có, thì cái Có/Không (Hữu/Vô) đó là hữu vi. Tuy nhiên, cái Tánh Không bản nhiên bao trùm cả cái “mưa/không mưa” hay bao trùm Có/Không (Hữu/Vô) là cái không của vô vi, cái không thường hằng, bất động.

Có cách tiếp cận tâm bản nhiên này, như Kinh Kim Cang dạy: ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm (khi tâm không trụ vào đâu hết, thì cái tâm kỳ diệu sẽ hiển lộ). Trong khi đó, Kinh Pháp Bảo Đàn ghi: Đối trên các cảnh tâm không nhiễm, gọi là Vô niệm; hay ghi lời Lục Tổ Huệ Năng dạy Thượng Tọa Minh: dứt hết trần duyên, chớ sinh niệm tưởng, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi đó, khuôn mặt thật của Thượng Tọa Minh hiện ra vậy. Kinh Bahiya Sutta cũng ghi lời Đức Phật dạy Bahiya cách nhìn xa lìa cả có/không: hãy để cái được thấy là cái được thấy, cái được nghe là cái được nghe, cái được cảm thọ là cái được cảm thọ… thì Bahiya, ông sẽ không là chỗ ấy, không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa, như vậy là đoạn tận khổ đau.

Tương tự với quán như huyễn, Đức Phật dạy về cách nhận ra cái không thường tồn, cái tánh không vốn không từ duyên nào mà có, qua Kinh SA 273, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng, trích:

Này Tỳ-kheo, thí như hai tay chập lại tạo thành âm thanh, cũng vậy duyên mắt và sắc sanh ra nhãn thức. Ba sự này hòa hợp sanh ra xúc, xúc sanh ra thọ, tưởng, tư. Các pháp này chẳng phải ngã, chẳng phải thường, mà đó là cái ngã vô thường; chẳng phải lâu bền, chẳng phải an ổn, đó là cái ngã biến dịch. Vì sao? Này Tỳ-kheo, vì nó là pháp thọ sanh có sanh, già, chết, tiêu mất.

“Này Tỳ-kheo, các hành như huyễn, như sóng nắng, trong khoảnh sát na, tàn lụi, không thật đến không thật đi. Cho nên Tỳ-kheo, đối với các hành vốn không, nên biết, nên hoan hỷ, nên suy niệm rằng, trống không là các hành thường tồn, vĩnh hằng, ổn trụ, pháp không biến dịch; trống không không có ngã, không có ngã sở.

“Ví như người mắt sáng tay cầm đèn sáng vào trong nhà trống, xem xét cái nhà trống ấy. Cũng vậy, Tỳ-kheo, đối với tất cả hành trống không, tâm quán sát, hoan hỷ, rằng trống không là các hành. Trống không, không ngã và ngã sở, là các pháp (được coi là) thường tồn, vĩnh hằng, ổn trụ, pháp không biến dịch. Cũng vậy, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp làm nhân duyên sanh ra ý thức, ba sự hòa hợp thành xúc, xúc sanh ra thọ, tưởng, tư. Các pháp này vô ngã, vô thường, chi tiết cho đến không, vô ngã và ngã sở.” (14)

Giải thích như thế là xong hơn nửa bài Tâm Kinh. Bây giờ Tâm Kinh thêm rằng: “Không có vô minh, mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.” Vì trong thực tướng thì không hề có cái gì gọi là Thập Nhị Nhân Duyên (khởi đầu là vô minh), không hề có khổ và Tứ Thánh Đế (già chết… Khổ Tập Diệt Đạo), không hề có Bồ Tát Đạo (trí là chi cuối của Lục Độ: Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Huệ), không hề có cái gì gọi là đắc quả Thánh.

Trong nhóm Kinh Tập, thuộc Tiểu Bộ Kinh, có Kinh Sn 1.1 (Uraga Sutta) gồm 17 bài kệ, lập lại câu “tất cả thế giới này là không thật” (All this is unreal) tới 5 lần trong 5 bài kệ mang số từ 9 tới 13. Điểm đặc biệt, để nhấn mạnh tính Như huyễn của các pháp, Đức Phật lập lại 17 lần nhóm chữ “rời bỏ được cả bờ này và bờ kia” (sloughs off the near shore & far) trong 17 bài kệ của Kinh Sn 1.1. Đó cũng là ngôn ngữ của Tâm Kinh: “Vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc” – [Trong cái nhìn thực tướng thì] không hề có Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng không hề có Trí Tuệ (qua bờ kia), cũng không hề có Chứng Đắc (giải thoát)… (15)

Cái nhìn về thực tướng như thế được Đức Phật dạy trong nhiều bài kinh trong nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời, nhóm kinh chư tăng tụng hàng ngày trong những năm đầu Đức Phật hoằng pháp khi còn sinh tiền. Trong đó, có Kinh Sn 4.5, bản dịch của nhà sư Bhante Varado ghi rằng ngay tới Phật Pháp cũng phải rời bỏ, trong khi các dịch giả khác dịch là “doctrine” (giáo thuyết).  

Kinh Sn 4.5, bài kệ 803, bản Anh dịch của Bhante Varado: “803. He does not concoct religious teachings, Nor does he blindly follow them. He does not hold on even to the Buddha’s teachings. He is a Brahman, Not to be inferred by precepts and practices. Gone to the further shore, One of such quality does not return.” (16)

Bài kệ 803 trên, bản dịch Thanissaro Bhikkhu là: “They don’t conjure, don’t yearn, don’t adhere even to doctrines. A brahman not led by precepts or practices, gone to the beyond — Such — doesn’t fall back.” (16)

Bài kệ 803, bản dịch Khantipalo: “Neither they’re fashioned nor honoured at all—those doctrines, they’re never accepted by him: Perfected, not guided by rites or by vows, One Thus, not returning, beyond has he gone.” (16)

Bài kệ 803, bản Việt dịch của Nguyên Giác: “803. Vị đó không dựng lập, thiên về, không nắm giữ giáo thuyết nào, không bị dẫn dắt bởi giới luật hay nghi lễ tôn giáo. Sống với Như Thị [is Thus] vị đó qua bờ, không lùi lại.” (16)

Như thế là giải thích hoàn tất Tâm Kinh. Và như thế, chúng ta hiểu được vì sao các Thiền sư trong khi dạy đạo, có lúc chẻ tượng Phật làm củi để sưởi ấm, chỉ là một cách để dạy học trò. Và cũng là ý nghĩa “Phi tâm, phi Phật” trong một tắc Vô Môn Quan đã nêu lên trong bài.

—- Bài này được viết để tưởng nhớ Bổn sư là Hòa Thượng Thích Tịch Chiếu (1912-2016). Cũng để trả lời câu hỏi của một cư sĩ về câu “Không pháp nào để tu hết” trong các lời dạy của Thầy Thích Tịch Chiếu.

NGUYÊN GIÁC – 4/2021

Ghi chú:

(1) Kinh AN 6.49: https://suttacentral.net/an6.49/vi/minh_chau  

(2) Kinh AN 4.192: https://suttacentral.net/an4.192/vi/minh_chau

(3) Kinh  Ud 7.2: https://suttacentral.net/ud7.2/en/sujato

(4) Kinh Nhật Tụng Sơ Thời: https://thuvienhoasen.org/a30590/kinh-nhat-tung-so-thoi

(5) Kinh EA 45.6: https://suttacentral.net/ea45.6/vi/tue_sy-thang

(6) Kinh SA 335: https://suttacentral.net/sa335/vi/tue_sy-thang

(7) Kinh AN 4.36: https://suttacentral.net/an4.36/vi/minh_chau

(8) Kinh AN 4.185: https://suttacentral.net/an4.185/vi/minh_chau

(9) Kinh SA 952: https://suttacentral.net/sa962/vi/tue_sy-thang

(10) Kinh SN 12.12: https://suttacentral.net/sn12.12/vi/minh_chau

(11) Kinh SA 103: https://suttacentral.net/sa103/vi/tue_sy-thang

(12) Kinh SA 1091: https://suttacentral.net/sa1091/vi/tue_sy-thang

(13) Kinh SN 22.95: https://suttacentral.net/sn22.95/vi/minh_chau

(14) Kinh SA 273: https://suttacentral.net/sa273/vi/tue_sy-thang

(15) Kinh Sp 1.1 Uraga Sutta: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.01.than.html

(16) Kinh Sn 4.5, bản dịch Bhante Varado: http://suttas.net/english/suttas/khuddaka-nikaya/sutta-nipata/atthakavagga%20-%20php%20version%201.4/05-highest.php

Bản dịch Thanissaro: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.05.than.html

Bản dịch Khantipalo: https://suttacentral.net/snp4.5/en/mills

Bản dịch Nguyên Giác: https://thuvienhoasen.org/p15a30598/sn-4-5-parama-haka-sutta-kinh-ve-toi-thuong

Ngài Bodhi Dharma – Bồ Đề Đạt Ma (PTH vẽ)

Discover more from Tinh Tấn Magazine

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *