Bài TRẦN NGHI HOÀNG
Lời người viết: Phật giáo Việt Nam đã thăng trầm cùng vận mệnh đất nước Việt Nam qua suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đã từng là quốc giáo của hai triều đại lừng lẫy Lý, Trần. Phật giáo hẳn nhiên còn là cốt lõi của tinh thần Việt tính Việt thường. Bởi đó ngôn ngữ tư tưởng nhà Phật thâm nhập vào văn chương đời sống con người Việt Nam là chuyện tất yếu. Tất yếu nữa là sự thâm nhập đó đã đến mức hết sức sâu sắc và phổ quát. Thậm chí lắm khi thoáng nghe qua chỉ thấy nó như những điều hay đối thoại hàng ngày.
Trong một buổi họp bạn, một anh đứng lên xin về trước. Mọi người nằn nì ép anh ở lại. Anh xin lỗi nhưng nhất định phải về. Anh nói, “Tôi phải về đúng giờ. Không thôi bà xã tôi nổi cơn tam bành lục tặc là chỉ có chết.” Anh cười giả lả và đi ra cửa.
Tam bành lục tặc, bốn chữ này quá quen phải không? Bạn đã nghe nó bên nhà hàng xóm, ở một cửa chợ, v.v.. Nhưng phải dừng lại suy nghĩ bạn mới nhận ra nó là thuật ngữ triết lý của nhà Phật.
Trên đây chỉ là một trong vô vàn những thuật ngữ có ấn tích của tư tưởng Phật giáo đã đi vào đời sống con người Việt Nam. Dĩ nhiên nó cũng bàng bạc trong dòng văn chương của dân tộc Việt.
Trân trọng,
Trần Nghi Hoàng
“Mụ nghe nàng nói hay tình
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên.”
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
Hai câu thơ trên nằm trong đoạn Mã Giám Sinh đưa Thúy Kiều về ra mắt Tú Bà sau khi đã phỉnh gạt được nàng. Tôi tìm thấy trong trang mạng chính thống về giáo dục của Việt Nam viết về đoạn này như sau:
“Đầu tiên mụ xác định vị trí của mụ và Thúy Kiều ở chốn lầu xanh này:
‘Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay
Dạy rằng con lạy mẹ đây
Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.’
Ngắn gọn nhưng thể hiện đầy đủ nội dung cần thông báo. Đó là mối quan hệ giữa ba người, Tú Bà, Mã Giám Sinh và Thúy Kiều. Đồng thời cũng mấy chữ đó thôi mà tỏ rõ uy quyền, bộc lộ luật lệ của kẻ giang hồ. Nghe rõ sự tình, Thúy Kiều đã thẳng thừng cật vấn. Kiều nói gia đình tôi gặp oan nạn nên tôi đành bán thân làm vợ lẽ (Tiểu tinh.) Sao bây giờ lại lấy yến làm oanh. Bà hãy nói lại cho phân minh về thân phận của tôi. Mà trước khi bà nói, tôi cho bà biết, ông Mã đã đến cưới tôi có đủ nghi thức, nào là ‘nạp thái vu quy,’ nào chuyện ông ấy đã chung chạ ‘đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.’ Lời nói thật của nàng Kiều như cái tát vào mặt vênh vang của mụ Tú. Đến đây tính cách của kẻ vô học đĩ bợm bộc lộ hoàn toàn:
‘Mụ nghe nàng nói hay tình
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên.’
Theo sách Phật, trong mỗi con người đều có ba vị thần, Bành Cứ, Bành Chất, Bành Kiêu. Đây là ba vị thần xúi giục con người ta làm điều ác. Nói khác đi, cụ Nguyễn cho rằng, mụ Tú lúc này đã sống hoàn toàn với con người ác đức.[1]”
Tôi không thấy ghi chú là cuốn sách Phật nào đã nói tới ba vị thần Bành Cứ, Bành Chất, Bành Kiêu này. Tôi cũng không tin trong thuyết nhà Phật hay triết lý Phật giáo lại có khái niệm về thần linh như ba vị thần họ Bành nói trên. Tra cứu trong các Tự điển Phật học hoàn toàn không thấy có hai chữ “tam bành.” Nhưng cuối cùng, may mắn thay, trên trang phathoc.org, thầy Thích Phước Lai đã giải thích như sau:
“Theo sách Thái thượng Tam thi Trung kinh, thì Thượng thì tên Bành Cử, vốn ở đầu con người, Trung thì tên là Bành Chất, trú ở bụng con người. Hạ thì tên là Bành Kiêu trú ở chân con người. Ba vị thần này gọi là Tam Bành hay xúi giục con người ta làm bậy. Đến ngày canh Thân, ba vị thần này lên tâu với Ngọc Hoàng Thượng đế để cho con người mau chết để khỏi phải theo dõi nữa. Người ta tin rằng những sự nóng nảy giận dữ là do ba vị thần Tam Bành gây ra để cho con người dễ làm bậy.”
“Thái thượng Tam thi Trung kinh” là sách của Lão Giáo. Lão Đam, tức Lão Tử, người khai mở đạo Lão tại Trung Hoa, được ghi nhận là xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VI-V trước Công nguyên, có thể trước Khổng Tử một hai chục năm. Đức Phật cũng đã đản sinh và chuyển pháp luân trong khoảng thời gian này. Như vậy Tam Bành là của Lão giáo. Ta có thể nhận ra rằng tính chất của ba vị thần họ Bành này tương đương với ba điều mà nhà Phật gọi là Tam độc, tức là Tham, Sân, Si.
Phải nhìn thấy Phật giáo như là một triết lý sống nhiều hơn là một tôn giáo. Vì vậy, khi Phật giáo đến bất cứ một quốc độ nào cũng đều có những hội nhập để thích ứng với văn hóa, tín ngưỡng vốn có của bản xứ. Tây Tạng là một điển hình rõ rệt nhất. Trước khi Phật giáo du nhập vào, người Tây Tạng tin theo đạo Bon, chuyên luyện pháp thuật và thần chú. Do đó khi Phật giáo đến Tây Tạng, Mật tông, tức Kim Cang thừa đã thích ứng với người Tây Tạng hơn hết. Cũng như vậy, Phật giáo đến Trung hoa cũng có những pha trộn để tương ưng. Những pha trộn này cốt để sự hoằng pháp được phổ quát.
Ba vị thần Tam Bành của Lão giáo gần như thể hiện được đầy đủ tính chất của Tam độc tức Tham, Sân, Si bên nhà Phật.
Phật giáo đến Việt Nam trước Trung Hoa nhưng hầu hết những kinh sách Phật học của Việt Nam đều được dịch từ tiếng Trung Hoa sang. Phần nữa, do hoàn cảnh lịch sử và địa lý nên ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa tới Phật giáo Việt Nam không phải là nhỏ. Phật giáo, với thuyết nhân quả, duyên sinh duyên nghiệp thì Tam độc Tham Sân Si là đối tượng chính để tu. Có thể nói, cốt tủy tinh yếu của đạo Phật là mỗi hành giả phải tự diệt Tham Sân Si của mình. Diệt được Tham Sân Si cũng đồng nghĩa với diệt được tự ngã. Diệt được tự ngã là chứng ngộ.
Còn “Lục tặc,” ta có thể tìm thấy trong hầu như bất cứ kinh sách nào của nhà Phật. Lục là sáu, tặc là giặc. Có nhiều chỗ lại gọi là môi tặc, tức là môi giới hay cửa ngõ cho giặc vào, tác động hay thúc đẩy cho Tam độc hoành hành.
Lục tặc tức lục căn, gồm nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Lục căn tiếp xúc với lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc-mắt thấy, thanh-tai nghe, hương-mũi ngửi, vị-lưỡi nếm, xúc-thân thể tiếp chạm, pháp-kết quả của sự tiếp xúc của lục căn với lục trần, được phân lọc qua ý thức. Nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, thân căn là năm phù trần căn cho nên chúng ta nhận ra được những biểu hiện của nó.
Còn ý căn là vô biểu sắc căn cho nên với căn này chúng ta hầu như mù mịt về nó. Bởi vì nó không có hình sắc gì để chúng ta có thể nắm bắt được. Lại nữa, trong ý căn, ngoài ý thức, lại có thêm hai cái “thức” cộng sinh với nó, mạt na thức (mà tôi tạm gọi là vô thức hay ngã thức,) và a lại da thức (alaya, tức tàng thức.) Do đó, lục căn là do tiếp xúc với lục trần nhưng lại có tới bát thức, vì ngoài nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân ý thức, còn có mạc na thức và a lại da thức. (Tôi sẽ có một bài khác viết riêng về đề tài này.)
Về lục tặc, tức lục căn, Kinh Pháp Cú, câu 182 có một tích truyện và một bài kệ rất hay của Đức Phật mà tôi thấy nó quý giá như chiếc chìa khóa bí nhiệm cho mọi Phật tử trên con đường tu học:
“Khó thay được làm người
Khó thay được sống còn
Khó thay nghe diệu pháp
Khó thay Phật ra đời.”
(Câu 182 kinh Pháp Cú.)
Tích truyện của câu kinh này kể về một vị Tỳ Kheo thời Phật Ca Diếp thứ Ba. Một hôm nọ, vị Tì Kheo đi thuyền trên sông Hằng. Ông đứng trên lòng thuyền chỗ gần mũi thuyền. Trên bờ sông rải rác nhiều loại cây cao thấp lớn nhỏ khác nhau. Có những cây tàn rộng sum suê chìa hẳn ra mặt sông. Vài cành thấp là đà gần như chạm mặt nước. Đến một đoạn sông, một cành cây chìa ra trước mặt vị Tỳ Kheo. Trong một giây bất giác, vị Tì Kheo đã đưa bàn tay của ông ra nắm một chiếc lá trên cành cây trước mặt. Con thuyền cứ trôi, chiếc lá vẫn vô tình bị giữ chặt trong bàn tay vị Tì Kheo. Chiếc lá đứt lìa khỏi cuống, giập nát trong bàn tay ông. Vị Tì Kheo vẫn không suy nghĩ gì. Ông ngẩn ngơ xòe bàn tay ra. Chiếc lá giập nát rơi xuống sông. Sau đó vị Tỳ Kheo vẫn tiếp tục hành trì công phu một cách nghiêm cẩn.

Hai mươi năm trôi qua, vị Tì Kheo ngã bệnh rồi càng lúc càng yếu. Và ông thấy như trong lòng mình có một điều gì đó không yên. Như là một niềm ân hận. Rồi vào giờ lâm chung, ông cảm thấy như có một chiếc lá giập nát đang chặn ngang cổ họng. Vị Tỳ Kheo đã qua đời trong niềm ân hận và hình ảnh một chiếc lá giập nát chặn ngang cổ họng ông như vậy. Do đó, vị Tì Kheo đã nhắm mắt với một cái tâm không thanh tịnh. Vì vậy, ông bị thoái đọa. Nhưng nhờ công phu tu hành mấy mươi năm nên vị Tỳ Kheo không bị đọa làm loài súc sinh tầm thường mà được làm Long vương tức là vua rồng, loài súc sinh nhưng có phép thần thông và tuổi thọ gần như vô hạn. Vị vua rồng mà tiền thân là Tỳ Kheo kia trở thành Long Vương sông Hằng.
Long Vương sông Hằng cứ ở đó suốt không biết bao nhiêu là nghìn năm. Ông có một người con gái rất thương cha và có hiếu. Người con gái thấy cha mình sao cứ luôn buồn bã u hoài, cô gạn hỏi.
Long Vương nói, “Con ơi, trong lòng ta lúc nào cũng có một điều gì đó như ân hận không yên, không trọn vẹn. Cứ mỗi lần nhìn thấy những thầy tì kheo hay nghe nói đến pháp hội của các vị sa môn ở đâu đó là lòng ta cứ nôn nao. Nhưng ta cũng không biết tại sao. Từ mấy ngàn năm nay trong lòng ta luôn nung nấu những câu hỏi. Ta đã đi hỏi khắp mặt các vị thần quen biết nhưng chưa một ai trả lời thỏa đáng được cho ta. Ta tin rằng chỉ khi nào những câu hỏi của ta có được người giải đáp làm ta mãn ý thì ta mới chấm dứt được nỗi phiền não và ân hận trong lòng. Ta tuyên hứa rằng người nào giải đáp được hết những câu hỏi của ta, ta sẽ tặng hết những châu ngọc của cải dưới Long cung.”
Con gái Long Vương nói:
“Thưa cha, cha nói cho con biết những câu hỏi của cha. Con sẽ đi tìm người giải đáp.”
Long Vương liền đọc cho con gái nghe những câu hỏi, như một bài kệ:
“Thế nào gọi là vua? Thế nào là bị tham dục thống trị? Làm sao thoát khỏi quyền lực của tham dục? Và tại sao gọi là ‘ngu’?”
Long Vương nói thêm, “Ta tin chắc rằng, khi nào tâm ta giải mở được những điều này cũng là lúc thân ta thoát khỏi cái thân súc sinh Long Vương.”
Cô con gái của Long Vương bắt đầu đi tìm hỏi những điều cha thắc mắc. Cô mang về một số những lời giải đáp nhưng hoàn toàn không có một giải đáp nào hợp ý Long Vương. Bấy giờ là thời Phật Thích Ca, tức là đã qua thời Phật Ca Diếp thứ Ba mấy ngàn năm. Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni có một thông lệ trong việc hoằng pháp là mỗi buổi sáng ngài thường quán sát để tìm những người có duyên với công cuộc độ pháp của Phật. Hôm đó Phật quán sát và thấy ngài có duyên độ cho một vị Long Vương đồng thời cũng có duyên để độ cho một vị Ưu Bà Tắc (nam cư sĩ.) Đức Phật quyết định sẽ độ cho vị Ưu Bà Tắc trước rồi sẽ để cho vị ấy làm trung gian mang pháp dụ của ngài đến với Long Vương.
Quyết định xong, đức Phật ôm bình bát đến nhà vị Ưu Bà Tắc để hóa trai. Người nam cư sĩ hết sức hoan hỉ đón tiếp cúng dường Phật. Xong, anh quỳ xuống đảnh lễ và nói, “Bạch Thế Tôn, xin ngài xót thương ban cho con pháp dụ.”
Đức Phật mỉm cười gật đầu, “Nhưng trước khi ban cho con pháp dụ, Như Lai muốn con nghe những câu hỏi này và nói cho Như Lai biết cảm nghĩ của con.” Người Ưu Bà Tắc chắp tay thành kính vâng lời. Đức Phật đọc cho người nam cư sĩ những câu hỏi của Long Vương mà ngài quán sát thấy được. Người Ưu Bà Tắc chăm chú như uống từng lời của Phật. Phật dứt lời, anh ta trầm ngâm một lúc rồi chắp hai tay thưa:
“Bạch Thế Tôn, đây là những câu hỏi rất mới lạ mà lần đầu con được nghe. Con có cảm giác là nó rất thâm diệu. Nhưng quả tình là con không hiểu được. Xin Thế Tôn xót thương chỉ dạy cho con.”
Đức Phật mỉm cười, “Tất nhiên Như Lai sẽ dạy cho con lời giải của những câu hỏi trên. Và Như Lai muốn con làm cho ta một việc là sau đó con sẽ mang những lời giải này như một pháp dụ của Như lai đến bờ sông Hằng, ở đó hiện đang có người rất cần những lời giải này.”
Người Ưu Bà Tắc chắp tay cung kính, “Con nhất định sẽ làm như lời Thế Tôn chỉ dạy.”
Đức Phật nói, “Nhưng ta nói trước để con biết, trên đường đến bờ sông Hằng, con sẽ bị nhiều kẻ, thậm chí là đám đông ngăn chặn làm khó trước khi con có thể gặp được người đang cần pháp dụ của Như Lai do con mang đến.”
Người Ưu Bà Tắc vẫn chắp hai tay cung kính, “Con nhất định sẽ làm được việc do Thế Tôn ủy thác.”
Đức Phật mỉm cười gật đầu, “Ta biết con sẽ làm được. Bây giờ con lắng nghe đây. Này Ưu Bà tắc, thế nào là vua? Người làm chủ sáu căn là vua. Thế nào là bị tham dục thống trị? Người ưa thích, ham mê sáu căn là bị tham dục thống trị. Làm sao thoát khỏi quyền lực của tham dục? Không đắm luyến sáu căn thì thoát khỏi quyền lực của tham dục. Tại sao gọi là ngu? Người ưa thích đam mê theo sáu căn gọi là ngu.”
Đức Phật dứt lời, tâm trí người Ưu Bà Tắc bừng sáng, cả người anh lâng lâng như bước vào một cảnh giới khác. Người Ưu Bà Tắc đã bước ngày vào sơ quả tu đà hoàn (Dự Lưu) khi nghe được lời giải những câu hỏi thâm diệu từ Đức Phật. Đức Phật biết điều này nên khi người Ưu Bà tắc quỳ sụp xuống lạy tạ ơn Đức Phật, ngài nâng anh ta lên và nói, “Bây giờ con hãy đến bờ sông Hằng rồi hãy mang người muốn gặp Như lai đến cho Như Lai.”
Nói xong, Đức Phật ôm bình bát quay về tịnh xá. Người Ưu Bà Tắc cũng thơ thới hân hoan tức thì lên đường tìm đến bờ sông Hằng.

Quả nhiên cuộc hành trình của anh khá là vất vả. Anh đã bị ngăn chặn và cản trở nhiều lần, có khi là do một hai người, có lúc là từ cả một đám đông. Nhưng được trang bị dõng mãnh từ lòng tin bất hối chuyển, anh vẫn tiếp tục kiên trì đi dọc theo bờ sông Hằng. Anh phải tìm cho bằng được ai đó mà anh có nhiệm vụ mang đến cho họ pháp dụ của ngài. Cuối cùng, người Ưu Bà Tắc thấy gần phía bờ mà anh đi có một chiếc thuyền khá lớn và rất dài, hình dáng mường tượng như một con rồng đang lửng lơ trên mặt nước. Ở mũi thuyền, một cô gái ăn vận quần áo lộng lẫy thướt tha đang đứng hát. Thực ra chiếc thuyền là do Long Vương hóa thân thành, còn cô gái đang đứng hát ở mũi thuyền là con gái Long Vương. Cô hát, giọng cao vút vang ra trên sông, tỏa vọng vào hai bờ sông. Lời hát như một bài kệ lạ lùng. Đó chính là những câu hỏi của Long Vương với lời hứa hẹn tiếp theo:
“Hỡi hiền giả xa gần
Hãy tìm ra đáp án
Ai có lời thỏa đáng
Tạ ơn một kho tàng.”
Người Ưu Bà Tắc mừng rỡ đi nhanh ra ven sông, vừa đưa tay vẫy cô gái trên thuyền vừa gọi lớn, “Cô ơi, tôi có đáp án đây.”
Cô gái nhoẻn cười nói nhỏ gì đó, chiếc thuyền lập tức tiến vào bờ chỗ người Ưu Bà tắc đang đứng. Chiếc thuyền dừng lại, cô gái xuống thuyền vòng tay chào người Ưu Bà Tắc rồi nói, “Thưa hiền giả, nếu hiền giả giải nghi được những câu tôi đã đề ra thì cha tôi sẽ dâng tặng hiền giả một kho tàng châu báu.”
Người Ưu Bà Tắc cũng vòng tay đáp lễ nhưng nhẹ lắc đầu nói, “Tôi không màng đến kho tàng gì đâu. Vả lại tôi chỉ là người mang lời giải đáp đến.”
Cô gái tròn đôi mắt đen láy, “Vậy thì ai là người đưa ra những lời giải đáp này?”
Người Ưu Bà Tắc mỉm cười, “Tôi sẽ nói cho cô biết sau. Bây giờ, tôi đọc những lời giải, cô hãy lắng nghe.”
Người Ưu Bà Tắc cao giọng đọc rõ ràng cho con gái Long Vương như Đức Thế Tôn đã đọc cho anh.
Long Vương, trong hóa thân là chiếc thuyền bấy giờ đã lắng nghe từng chữ một. Người Ưu Bà Tắc vừa dứt lời, Long Vương sung sướng quá rùng mình hiện nguyên hình vẫy mạnh đuôi làm cho nhiều nhà cửa và người vật, cả cô con gái của Long Vương và người Ưu Bà Tắc bị cuốn lên và hất tung xuống sông. Long Vương hoảng hốt phải đưa đuôi ra hứng lại và đặt cả nhà cửa, cô con gái của mình và người Ưu Bà Tắc cùng trở lại nguyên chỗ cũ. Bấy giờ, Long Vương hóa thân thành một người mũi to râu dài dáng điệu uy mãnh. Long Vương nắm tay cô con gái, tiến tới trước mặt người Ưu Bà Tắc vái dài và nói lớn, “Đa tạ hiền giả đã mang đến cho tôi những lời giải nghi còn quý giá hơn tất cả vàng ngọc châu báu trên trần gian này. Bây giờ hiền giả có thể cho chúng tôi biết ai là người đã đưa ra được những giải đáp đó hay không?”
Người Ưu Bà Tắc vòng tay đáp lễ và gật đầu, “Đó là pháp dụ của Đức Phật tại thế Thích Ca Mâu Ni bảo ta mang đến cho ông.”
Long Vương buông tay con gái bước tới cầm tay người Ưu Bà Tắc, “Hiền giả, xin người vui lòng đưa tôi đến gặp Đức Thế Tôn.”
Người Ưu Bà Tắc mỉm cười, “Đó cũng là sứ mạng của tôi.”
Long Vương sung sướng nói cùng con gái, “Cha con mình có cơ may thoát được kiếp súc sanh rồi con ạ.” Sau, Long Vương và cô con gái cùng lên đường theo vị Ưu Bà Tắc đi gặp Đức Phật.
Vị Tì Kheo từ thời Phật Ca Diếp thứ Ba chỉ một phút bất giác (thất niệm, tức không giữ được chánh niệm) bứt đứt và làm giập nát một chiếc lá trên bờ sông Hằng mà sau đó cho dù đã hai mươi năm tu hành nghiêm túc đến phút lâm chung vẫn bị hình ảnh chiếc lá giập nát bất chợt hiện về làm cho ray rứt, hối hận đến nỗi đã lìa trần với một cái tâm không thanh tịnh nên đã bị thoái đọa đầu thai làm súc sinh. Như thế, ta có thể thấy rằng, giới luật cho một Tì Kheo quả là hết sức nghiêm cẩn. Ngoài những điều có trong giới bản có thể còn có những giới rất vi tế khác trong nhân quả, không được vô cớ hay vô tình tàn hại hay hủy diệt một chúng sinh, dù là vô tình chúng sinh như một chiếc lá cây. Bất giác không giữ được chánh niệm là Si. Tam độc Tham Sân Si là nguồn gốc gây ra phiền não, đọa lạc cho con người. Điều này đã được Đấng Thế Tôn ân cần nhắc nhở cho chúng ta vô số lần không thể nhớ đếm hết được. Cũng như vậy, Lục tặc, “sáu tên giặc” là sáu căn-thức khởi động Tam độc, Đức Phật cũng nhắc nhở chúng ta phải thường xuyên nghiêm cẩn hộ trì, kiểm soát để diệt được tự ngã.
Diệt được tự ngã là đạt tới tam-vô-lộ học Giới Định Tuệ. Là đã đến được bờ an lạc.
Gate, Gate, Paragate!
(Lancaster, Pennsylvania ngày 14 tháng 1, 2021)
[1] https://www.giaoduc.edu.vn/loi-le-cua-mu-tu-ba.htm

Discover more from Tinh Tấn Magazine
Subscribe to get the latest posts sent to your email.