100 năm trước, 100 năm sau qua hai áng thi tuyệt tác của Đức Huỳnh Giáo Chủ

*Đọc 41 phút*

Bài HUYỀN TRÍ

Đức Huỳnh Giáo chủ là một trong những bậc tuệ tri kỳ áo nhất thời hiện đại. Giải thích làm sao trường hợp một thanh niên tuổi chưa đầy hai mươi, bệnh hoạn từ tấm bé, học hành chưa trọn vẹn vì sức khỏe yếu kém; đột nhiên, chỉ trong vòng vài tháng, người tỉnh thức, biết hết tất cả, mở Đạo dạy đời, trong vài tháng trời có nhiều vạn người theo học, và vài năm sau trở thành giáo chủ một tôn phái với hai triệu tín đồ? Hầu hết các từ điển trên thế giới, nhất là Tây phương, đều có tên và hiệu của Ngài. Ngài được ngợi ca và đề xướng dưới đủ loại danh hiệu: Giáo chủ, Nhà Tiên tri, Triết gia, Nhà Cách mạng… Nhưng chưa thấy có sự đề cập đến Ngài như một “Thi hào” hay “Thi gia.”

Người Việt Nam rất yêu thích thơ của Ngài, lời lẽ giản dị, chân thật, thẳng thắn, dễ nhớ, dễ thuộc; ý tưởng có khi thâm thúy, có lúc chân phương, phát bằng trái tim, khởi từ trí tuệ. Càng ngày người đọc, ngâm, hát thơ của Ngài càng nhiều, vì từ khởi thủy, Ngài đã làm thơ để cho người nghe, người tu học được hát, ngâm, vịnh. Và hiệu quả đó càng ngày càng hiển bày hơn. Tuy nhiên, vì hình ảnh của Ngài như một “Phật gia” quá lớn, cùng các công trình đạo và đời khác, cho nên ít ai dám đề cập đến như một “thi gia.” Mặc dù Ngài nhiều lần tự xưng danh hiệu đó.

Thật là một sự lãng phí! Thi phẩm của Đức Thầy vô cùng giá trị. Phải nói là siêu diệu. Có nhiều thể loại khác nhau, và thành công trong bất cứ thể loại nào. Sấm, giảng, đạo, đời, luận, tranh, thủ, kích, Nho, Việt, nôm na, bác học… Luôn luôn mang chất đạo thâm sâu và tinh hoa. Đừng quên, thi văn của Đức Thầy là của “một thầy ba tớ”. Đầy đủ các màu sắc dành cho đủ hạng người và trình độ.

Ở đây xin mạn phép đề cập đến hai bài thơ, tuy vẫn là tinh túy đạo (và sấm), nhưng mang màu tuyệt đẹp của các đại thi phẩm, hình ảnh lung linh, hương sắc diễm ảo. Chữ dùng “ảo diệu!” Một chữ buông ra như một hạt châu tỏa sáng. Không chỉ đẹp, mà gói trọn cả một nguồn ý đạo. Người đời cần phải biết đến Ngài như một đại thi hào của đạo. Các bài thơ thiền trong quá khứ của các thiền sư, nhất là các bài Haiku Nhật bản hay thiền thi Trung hoa vẫn thường được nhắc nhở ca tụng. Không thể thiếu bóng thiền thi của Ngài Huỳnh Phú Sổ.

Chúng ta thử đọc hai áng thi dưới đây, phải gọi là hai TUYỆT TÁC cổ kim. Thật khó diễn tả trọn vẹn cái hay cái đẹp tiềm tàng trong đó. Chỉ có cảm nhận, rung động, và tôn quý.

100 NĂM TRƯỚC: Chân Dung của Đức Thầy từ Trăm Năm Trước

Áng thi thứ nhất, có thể mệnh danh là 100 NĂM TRƯỚC, được đề cập ở đây, viết năm 1939, theo thể Đường luật gồm ba đoạn thất ngôn bát cú, bằng chữ Hán-Nho. Đây chính là một Sấm-Đạo-Thi tối thượng phản ánh được chân tài và trí tuệ của Đức Thầy, đã hiển lộ khi Ngài chưa đầy hai mươi tuổi. Ngài đã vén màn bí mật về chính bản thân trước khi xuất hiện, và sự nghiệp trong vòng trăm năm. Hơn nữa, còn khai mở Phật Pháp huyền nhiệm bằng chỉ đôi ba chữ. Một bài thơ Đường Nho “trên cả” tuyệt vời!

Về hình thức, Đức Thầy cho thấy một cái nhìn chân thiện mỹ, đưa ra những  hình ảnh trác tuyệt. Chữ dùng rất đẹp, rất sáng tạo, minh mẫn, diễn tả được nội dung mang Ý Đạo và Sấm Truyền một cách chính xác, sâu sắc, trọn vẹn, thiện xảo. Có thể nói đây không phải là bài thơ của phàm nhân. Dù là thiên tài cũng không thể nào đương nhiên nghĩ được, thấy và nói được Đạo cách cô động nhất, tiên đoán được vận mệnh của chính mình từng bước một sẽ xảy ra trong cuộc đời này trong vòng những năm tháng tới. Đây là một bậc siêu nhân, có trí tuệ thượng thừa. Một bậc đã hóa sinh nhiều đời kiếp. Một hóa thân của Hoạt Phật.

VÉN MÀN BÍ MẬT
(nguyên tác)

Đức Huỳnh Giáo Chủ

Giục thúc đạo đồng kiến thúy quyên,
Chư bang điềm tĩnh sĩ danh hiền.
Sa-vi đông-hải tri thiều nhạc,
Nam-đỉnh ngọc đài lộ kỷ tiên.
Đởm lực hà quê trung trực thử,
Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên.
Sơn ly Phật-cảnh hồi Nam-Việt,
Diệt khổ sanh kỳ vị trưởng miên.

   *

BỬU-ngọc trường quang ẩn tích kỳ,
SƠN-đài lộ vẻ liễu huyền-vi.
KỲ-thâm tá giả thi thành thủy,
HƯƠNG-vị âm thầm mộc túy vi.
NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử,
NON lịch đài mây rạng tu mi.
BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ,
NÚI ngự hoàng san tự Đỉnh-chi.

   *

Hòa bình thế-giái kiến Tiên-bang,
Ngô giả tùng nhung khí đởm gian.
Hồ thiên tiểu ẩn quân tu ký,
Lương thứ dương-trần đạo dĩ an.
Đào nguyên di khả tứ hồ-văn,
Khảo đảo tâm trung mãi vạn năng.
Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất,
Vận thới thô trình trực bỉnh thăng.
Hòa-Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão.

Diễn giải:

Bài thơ bằng chữ Hán Nho, vô cùng thâm thúy và vi tế  khiến cho người đọc khó tìm thấy hết các cách siêu diệu trong đó. Vì quá cô đọng và sâu sắc, thật khó thể nào chuyển sang ngôn ngữ khác một cách ngắn gọn mà đầy đủ ý, kể cả tiếng Việt là ngôn ngữ khá gần với chữ Nho. Chúng ta thử đọc từng câu và  tìm ý nghĩa trong từng chữ. Các hiện tượng bí áo lần lượt được Đức Thầy vén màn cho biết qua từng câu một, dưới đây:

1. Giục thúc đạo đồng kiến thúy quyên: Thúc giục các đồng đạo tìm thấy một sự kiện (hiện tượng đạo đức) cao sâu.

2. Chư bang điềm tĩnh sĩ danh hiền: Bậc hiền tài suy nghĩ chín chắn trước khi hành động, có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia (hay người) lân cận.

3. Sa-vi đông-hải tri thiều nhạc: Những hạt cát siêu vi của biển Đông nghe biết được khúc nhạc cao diệu.

4. Nam-đỉnh ngọc đài lộ kỷ tiên: Đài ngọc trên đỉnh núi trời Nam hé lộ những bậc Tiên nhân đắc đạo tại đây. Đó là Đức Phật Thầy Tây An, cùng các truyền nhân và hóa thân của Ngài.

5. Đởm lực hà quê trung trực thử: Những bậc có đủ sức gánh vác, cang cường, tuy mộc mạc chân chất, nhưng trung cang nghĩa đảm.

6. Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên: Họ mang hạo khí của đất trời và tâm nguyện báo quốc, như bài hùng ca vang dậy.

7. Sơn ly Phật-cảnh hồi Nam-Việt:  Lìa bỏ cảnh Phật trên núi cao (Thất Sơn) quay trở lại miền Nam Việt.

8. Diệt khổ sanh kỳ vị trưởng miên: Đã diệt tận khổ giờ (vì đời) lại phải sống đời trong vòng mải miết tranh đua cao thấp.

9. BỬU-ngọc trường quang ẩn tích kỳ:  Viên ngọc quý báu,  ánh sáng chiếu rạng ngời, (tiêu biểu cho một đạo nhân cao siêu có hào quang tỏa sáng), còn ẩn hình một cách kỳ bí.

10. SƠN-đài lộ vẻ liễu huyền-vi: Đài núi hiện dáng vẻ cao vời mà huyền diệu.

11. KỲ-thâm tá giả thi thành thủy: Một nhân vật kỳ ảo, phi thường, ẩn danh, có đại tài thơ phú như mây trôi nước chảy.

12. HƯƠNG-vị âm thầm mộc túy vi: Lời đạo pháp ẩn tàng bên trong là tinh hoa, nhuần thấm hương (đạo) vị tuyệt vời.

13. NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử: Năm năm sáu tháng sống trong cơ hàn khổ cực.

14. NON lịch đài mây rạng tu mi: Núi non thanh tú, địa vị cao tột, tâm hồn cao thượng của bậc quân tử tu mi.

15. BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ: Bảy năm sống hòa hảo cùng sanh chúng trong sự dẫn dắt của người đạo hạnh.

16. NÚI ngự hoàng san tự Đỉnh-chi: Đời tân có vị tài đức ngự trị trên đỉnh cao núi vàng.

17. Hòa bình thế-giái kiến Tiên-bang: Hòa bình đến trên thế giới, loài người sẽ thăng hoa hơn trên con đường đạo đức, gần với đất tiên.

18. Ngô giả tùng nhung khí đởm gian: Người người mang tinh thần phấn chấn mạnh mẽ tranh đấu vượt khó khăn.

19. Hồ thiên tiểu ẩn quân tu ký: Vòm trời bao la trọn chứa, người tu ẩn dật cõi tư riêng, nên nhớ điều này.

20. Lương thứ dương-trần đạo dĩ an: Dân lành trên cõi đời cần có đạo mới yên ổn sống.

21. Đào nguyên di khả tứ hồ-văn: Cõi rừng đào nguyên có thể đến được, là nguồn cảm hứng cho thơ tứ.

22. Khảo đảo tâm trung mãi vạn năng: Người tu càng bị khảo đảo nhiều bởi nghịch cảnh, nếu vượt qua được sẽ càng đắc năng lực cao gấp vạn lần.

23. Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất: Đúng thời đúng lúc, bầu trời chân thật của vị minh quân sẽ xuất lộ.

24. Vận thới thô trình trực bỉnh thăng: Khi thời đến, sự nghiệp   về chân thật giảng bày đạo lý qua thi văn sẽ cao siêu và lừng lẫy (trong nhân loại).

VÉN MÀN BÍ MẬT
(tạm chuyển sang Việt ngữ)

Giục đồng đạo hiểu thấu uyên nguyên,
Hòa hảo an nhiên sĩ danh hiền.
Cát nhuyễn biển đông nhuần tiếng nhạc,
Đài ngọc non Nam hiện bóng tiên.
Đảm khí chất chân lòng trung hiển,
Hùng ca báo quốc nghĩa đáo thiên.
Lìa non cảnh Phật, về Nam-Việt,
Diệt khổ đời trần, lại truân chuyên.

   *

BỬU-ngọc rạng ngời, còn ẩn ký,
SƠN-đài lộ vẻ, biết huyền vi.
KỲ-thâm đại sĩ, thơ như nước,
HƯƠNG-vị pháp mầu, đạo tinh vi.
NĂM năm sáu tháng trong lạnh đói,
NON lịch đài mây rạng nam nhi.
BẢY năm đồng đạo phò tuệ đức,
NÚI ngự non vàng, đấng thượng tri.

   *

Thế giới hòa bình, tựa Tiên bang,
Quân thần đảm lược, sống an khang.
Trời rộng, chân tu còn ẩn dật,
Dân hiền, trọng đạo vốn dĩ an.
Đào nguyên tuyệt diệu, nguồn thi tứ,
Thoát tâm khảo đảo, phát vạn năng.
Thời đến, ánh dương, trời chân thật,
Vận lên, thi nghiệp, tối thượng thăng.

A. Đạo & Sấm & Chất Thơ

Thật khó tách rời ba yếu tố Đạo & Sấm & Chất Thơ trong các thi phẩm của Đức Thầy. Cả ba cộng lại mới kết thành đầy đủ tài năng và bản chất đặc biệt của Ngài. Chỉ tùy lúc mà gia giảm đậm nhạt đôi chút. Nếu những bài thơ mà Ngài tự gọi là “nôm na” được quần chúng vô cùng yêu thích, thì những bài thơ thâm thúy hơn – nhất là những bài bằng chữ Hán-Nho – đa số là những bài sâu sắc và chứa nhiều chất thơ nhất. Như trường hợp của bài “Vén màn bí mật.”

Thử lấy một câu thất ngôn (bảy chữ) dưới đây làm điển hình tìm hiểu:

Sa-vi đông-hải tri thiều nhạc: Những hạt cát siêu vi của biển Đông nghe biết được khúc nhạc cao diệu.

Câu này là một “chìa khóa vạn năng” mở được các cánh cửa Đạo. Thử phân tích vài điểm trong sự hiểu biết hạn hẹp của chúng ta.

1. Về chất thơ: “Sa-vi” một hình ảnh tuyệt đẹp bất ngờ, khó tưởng. Một chữ sáng tạo của tác giả. Những hạt cát cực kỳ bé nhỏ, như hạt vi-trần. Tại sao là sa-vi mà không phải vi-trần? Sa-vi mang chất thơ. Chất thơ vốn dĩ là sự nhận biết, rung cảm, liên lũy, tưởng tượng, một kết hợp cùng cái đẹp và tài năng diễn bày. Hạt cát (nhất là cát sông Hằng), nếu siêu vi tế còn đẹp hơn lên, vì kết hợp với dòng sông hay biển cả. Sa-vi này còn đám chìm trong cái nghe, hiểu, nhuần thấm vào tiếng nhạc cao diệu. Hình ảnh hạt cát siêu vi, cái cực nhỏ nằm trong cái cực lớn của biển Đông, và cái cực tĩnh của cát, nằm trong cái cực động của sóng nước, hội hợp lắng nghe nhạc trời. Tràn trề thi chất.

2. Về chất thiền: Những bài thơ thiền ngắn gọn chỉ vài chữ lại gây ấn tượng cho thiền nhân, thi nhân nhiều thế kỷ. Không phải chỉ là thơ, mang lại hình ảnh tuyệt đẹp và súc tích qua cái nhìn cái cảm thụ của thi nhân, mà là thiền pháp, là sự chứng nghiệm trực tiếp về thực tại.

Điển hình là bài thơ nổi tiếng trong thi tập “Mỏ Hạc” của Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền (Dogen Kigen, 1200-1252), vị Thiền sư Nhật bản khai sáng Tào Động tông. Sư được Phật tử của mọi tông phái Phật giáo Nhật thờ phụng như vị Đại Bồ Tát.

Bốn, năm mươi năm trôi,
Ta dùng sao treo trời.
Giờ nhảy vút qua khỏi –
Một bùng vỡ tuyệt vời!

(Four and fifty years
 I’ve hung the sky with stars.
 Now I leap through–
 What shattering!)

Thiền thi rất đẹp, nhưng cái đẹp nằm trong chân nghĩa chứ không do hình ảnh. Cái đẹp của sự chứng ngộ. Mắt của thiền sư nhìn sự vật khác hơn phàm nhân. Nếu xếp câu thơ trên của Đức Thầy theo dạng thiền thi, sẽ thấy rõ đó là thiền thi:

Sa-vi
Đông-Hải
Tri
Thiều nhạc.

(Infinitesimal sand
in the Eastern sea
has known
serene music)

Một chứng ngộ xuất thần! Hạt cát sa-vi ắt phải có từ thời lập địa, từ khi đất nước gió lửa bắt đầu hòa hợp và lắng đọng. Ở cạnh bờ biển thấm nhuần trong tiếng rì rào ngày đêm huân tập. Biển ở đây lại là biển Đông. Đông hải là biển đời xao động, mênh mông sóng gió, cũng là biển từ bi nơi Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu vớt chúng sanh. Đây là chứng ngộ từ căn cơ của một vị giác ngộ trong cái nhìn từ bi pháp.

 3. Về chất Đạo: Thiền là Đạo, đạo chứng ngộ không cần ngôn ngữ, mà lại chất chứa tràn đầy ngôn ngữ. Ở đây xin mạn phép mượn vài thuyết giảng của bậc chứng ngộ để nói lên cái Đạo từ bảy chữ này. Thấy được “sa-vi” ắt hẳn phải là bậc chứng Đạo! Những bậc này tất nhiên có cái nhìn “thiên nhãn thông” (trong Lục thông) để nhận chân sự thành lập của vũ trụ (theo thuyết tiến hóa Phật pháp). Đức Phật được sự bái phục của các nhà khoa học hiện đại như là Nhà Siêu Khoa Học vĩ đại, do bởi những hiểu biết khôn tận của Ngài về vũ trụ.

Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Trong vô đã hàm chứa hữu, từ đó khai sinh ra vạn vật. Đó là thuyết sắc không của  Bát nhã. Từ trong cái không rổng rang vũ trụ, cái Chơn Như, có chứa sẵn cái có hữu vi, nẩy nở và triển khai, với âm dương và tứ đại, trong tiến trình tĩnh lặng sẽ hòa hợp, sẽ kết hợp làm nên mọi cơ sở vật chất. Đó là thuyết duyên khởi. Sa-vi là hình thức sơ khai của hạt cát, đều là do kết hợp. Sao lại là hạt sa-vi chứ không phải hạt trần-vi? Có khác ở chỗ, hạt cát có chứa sự tĩnh lặng hay định lực (thiền) chứ không còn quá động loạn như vi trần. Và cũng từ sự tĩnh lặng đó có khả năng thấm nhuần các âm ba trong vũ trụ. Tiếng nhạc đầu tiên phát ra từ sự va chạm, ma sát giữa các hạt sa-vi với nhau, giữa các mối duyên với nhau. Đó là những cái duyên khởi đầu tiên đi vào một cuộc tiến hóa của hằng hà sa số kiếp!

Những hạt sa-vi may mắn này lại tụ về nằm ở bờ biển Đông, thấm nhuần bao nhiêu từ bi của cam lộ thủy và hải triều âm, các pháp của Đức Quán Thế Âm! Tiếng “thiều nhạc” hay nhạc siêu diệu đó hẳn là hải triều âm, hay cũng có thể chỉ là tiếng ma sát rào rạt giữa các hạt sa vi va chạm nhau trong gió và sóng nước; đồng thời là nhận biết nhau trong các mối duyên tao ngộ phôi thai nhất. Mọi thứ âm thanh lúc đó đều là thiều nhạc, phát ra từ các mối sơ khai duyên khởi.

Giờ đây, xin mời đọc lại: “Sa-vi – Đông-Hải – Tri – Thiều-nhạc.” Phải chăng là câu thuyết Đạo siêu diệu của bậc giác ngộ?

B. Nguồn Cội và Chân Dung

Đức Thầy đưa ra rất nhiều cái tên, nhiều tính cách, nhiều chân dung trong Sấm Giảng và Thi Văn của Ngài. Ngài xuất hiện dưới rất nhiều hình thức khác nhau, lắm khi tương phản, từ Khùng, Điên, đến tướng lãnh, minh quân, từ phàm nhân nam sang nữ, từ thần tiên đến Bồ Tát, Cổ Phật. Tại sao có nhiều nhân cách đến thế?

Về mặt hữu vi, đây là một sự thuyết phục dành cho chúng sanh. Ngài lập đạo trong một thời gian cực kỳ ngắn ngủi, đó là sự phi thường, phải dùng pháp phi thường. Và tương ưng với lòng dân, hay là môi trường phong hóa.

Về mặt vô vi, đây là biểu hiện của các thuyết lý Phật Pháp. Đức Phật Thích-Ca ngày trước có dạy về Bổn Sanh Duyên. Các biểu hiện biến hóa của Đức Huỳnh giáo chủ không khác nào một bộ Bổn Sanh Duyên trong thời hiện đại. Nếu xem Sấm giảng dưới cái nhìn tìm hiểu về duyên sanh duyên khởi, sẽ có rất nhiều để học hỏi về một trường hợp sống động trong thời đại chứ không chỉ qua kinh sách.

Về mặt siêu khoa học, đây chính là một hiện tượng mang câu giải đáp cho những nan đề về đầu thai, chuyển hóa, trí tuệ siêu phàm… mà Đức Thầy đã cống hiến cho thời đại để tìm hiểu, để khởi niềm tin và đi vào con đường tu học Phật Pháp. Mặc dù hiện tượng hóa sanh có khá nhiều trong Phật giáo Tây Tạng, nhưng đây là một trường hợp mở rộng, công khai cho sự tìm hiểu; đây là một sự cung ứng cho thế gian những chất liệu chân thật và đầy đủ về sự tiến hóa kỳ bí của một người phi thường, đi trước thời đại. Đức Thầy sống và viết, ghi lại tất cả trong kho tàng thi văn của Ngài.

Bài thơ ngắn này là một bức chân dung sinh động và hoàn hảo của Đức Thầy, trong đó Ngài có nói đến những sinh hoạt xuất thế gian trong khi chờ đợi vào đời, nhập thế. Tiếp đến, Ngài cho biết những gì sẽ xảy ra trong tương lai ở dương trần (sẽ trình bày chi tiết trong phần Tiên Tri).

(Những câu thơ trích dẫn dưới đây sẽ lấy từ bài “tạm dịch Việt ngữ” cho dễ nắm bắt):

Đài ngọc non Nam hiện bóng tiên.
Đảm khí chất chân lòng trung hiển,
Hùng ca báo quốc nghĩa đáo thiên.
Lìa non cảnh Phật, về Nam-Việt,
Diệt khổ đời trần, lại truân chuyên.

BỬU-ngọc rạng ngời, còn ẩn ký,
SƠN-đài lộ vẻ, biết huyền vi.
KỲ-thâm đại sĩ, thơ như nước,
HƯƠNG-vị pháp mầu, đạo tinh vi.

Nguồn cội của Đức Huỳnh Giáo Chủ: Đài ngọc trên đỉnh núi trời Nam hé lộ những bậc Tiên nhân đắc đạo tại đây. Đó là Đức Phật Thầy Tây An, cùng các truyền nhân và hóa thân của Ngài. Trong đó có Ngài Huỳnh Giáo chủ. Trong nhiều tiền kiếp, Ngài là bậc anh tài có đủ sức gánh vác, cang cường, tuy giản dị chân phương, mà trung cang nghĩa đảm; mang hạo khí của đất trời và tâm nguyện báo quốc, như một bài hùng ca vang dậy.

Chân dung của đời hiện tiền: Là một viên ngọc quý báu,  ánh sáng chiếu rạng ngời, (tiêu biểu cho một đạo nhân cao siêu có hào quang tỏa sáng), còn ẩn hình một cách kỳ bí trên đài núi cao vời huyền diệu. Một đại sĩ kỳ ảo, phi thường, ẩn danh, có tài thơ phú như mây trôi nước chảy. Lời đạo pháp ẩn tàng bên trong là tinh hoa, nhuần thấm hương (đạo) vị tuyệt vời. Ngài lìa bỏ cảnh Phật trên núi cao (Thất Sơn) quay trở lại miền Nam Việt. Tuy đã diệt tận gốc khổ, giờ đây (vì đời) lại phải chịu sống cảnh phàm nhân giữa cuộc đời mải miết tranh đua cao thấp.

C. Những tiên tri về việc đến, đi, và lưu truyền

Bài thơ làm tháng gần cuối năm 1939, tức là năm Đức Huỳnh Giáo chủ vừa nhập thế, lập Đạo, ngay lúc đó, Ngài đã đưa ra những lời tiên tri về việc Ngài đến, đi, và những gì truyền lưu cho đời và Đạo.

a/ Thời gian Ngài đến và đi trên nhân gian:

NĂM năm sáu tháng trong lạnh đói,
NON lịch đài mây rạng nam nhi.

Năm năm sáu tháng sống trong cơ hàn khổ cực. Vẫn giữ được tâm trí tuyệt vời được tôn kính, tâm hồn cao thượng của bậc quân tử tu mi. Đức Thầy khai đạo vào tháng 7/1939. Ngài viết bài thơ này khoảng tháng 11/1939. Thời gian đó, Ngài rất khốn đốn qua sự kèm kẹp và hành hà của thực dân Pháp. Đó cũng là thời Thế chiến II khởi sự. Những khó khăn ngày càng gia tăng trên toàn thế giới. Mọi người sống trong cực khổ cơ hàn, và thương vong. Ngài cũng không thoát khỏi cảnh đó, vì việc hoằng hóa của Ngài đòi hỏi phải bôn ba khắp nơi, vừa trị bệnh thể xác lẫn tâm hồn cho mọi người, vừa truyền dạy tu hành học đạo. Vài tháng sau khi số tín đồ lên đến hàng vạn, thì thực dân Pháp và chính quyền sở tại lưu ý đến, và giam lõng Ngài trong dưỡng trí viện Chợ Quán. Ở đó, Ngài vẫn tiếp tục hành đạo và sau cùng được thả ra. Đến năm 1945, khi Thế chiến II gần kết thúc, Ngài được sinh hoạt tự do hơn cùng các tín đồ, và chuẩn bị cho một bước tiến khác vào dân sinh xã hội. Thời gian khổ nạn Ngài đã tiên đoán chính xác, vào khoảng năm năm sáu tháng.

BẢY năm đồng đạo phò tuệ đức,
NÚI ngự non vàng, đấng thượng tri.

Bảy năm sống hòa hảo cùng sanh chúng trong sự dẫn dắt của người đạo hạnh. Đời mới có vị tài đức ngự trị trên đỉnh cao núi vàng – núi vàng đây mang ý nghĩa đạo đức chứ không phải vật chất.

Đây là hai câu tiên tri về thời gian Đức Thầy ngự trên đời để cứu vớt chúng sanh và truyền đạo. Ngài lập đạo vào khoảng cuối năm 1939, và sinh hoạt cùng các tín đồ vô cùng hảo hòa và mật thiết, như một lãnh tụ tối cao về đạo lẫn đời. Ngài vắng mặt vào tháng 4/1947. Tính ra sinh hoạt Đạo trên đời của Ngài là trong vòng bảy năm, đúng theo lời tiên tri.

Sau này, Đức Thầy có rất nhiều tiên tri về sự ra đi của mình. Đây là tiên tri đầu tiên, nói rõ cả ngày tháng. Như vậy, việc nhập thế để lưu truyền đạo, rồi xuất thế để giải nguy cho giềng mối đạo đều nằm trong thiên cơ chứ không do ý đồ của người trần. Trong phần Thi Văn, những năm Ngài sắp ra đi đều có nhắc nhở về biến cố chia ly cùng tín đồ. Đây cũng là sự kiện cần được ghi nhận về sự sáng suốt và thái độ của bậc siêu nhân xem nhẹ sống chết.

b/ Thế giới sẽ đi vào con đường Đạo:

Thế giới hòa bình, tựa Tiên bang,
Quân thần đảm lược, sống an khang.
Trời rộng, chân tu còn ẩn dật,
Dân hiền, trọng đạo vốn dĩ an.

Hòa bình sẽ đến trên thế giới, loài người sẽ thăng hoa hơn trên con đường đạo đức, gần với đất Thần tiên. Người người mang tinh thần phấn chấn mạnh mẽ tranh đấu vượt khó khăn. Ngài còn nhắn nhủ: Vòm trời bao la trọn chứa vạn vật, người tu cần nên ẩn dật cõi tư riêng. Dân lành trên cõi đời cần trọng đạo mới yên ổn sống. Khi Ngài viết câu này, Thế chiến II mới vừa nhen nhúm, thiên hạ loạn lạc nhiễu nhương, thế nhưng Ngài lại tiên tri rằng sau này thế giới sẽ hòa bình, và con người thăng hoa đạo đức, tiến gần đến cõi tiên.

Điều này được chứng thực trong tương lai. Sau chiến tranh, nhìn chung, con người xúc cảm trước cảnh sanh linh đồ thán, nên có khuynh hướng phát triển nhân sinh, nhân đạo, và luật pháp, tôn trọng lẫn nhau. Họ tranh đấu cho bình đẳng và giải phóng các người kém may mắn hơn. Chẳng hạn như bình đẳng sắc da, chủng tộc, giới tính…  Đó là về mặt xã hội. Về mặt tâm linh, đạo giáo cũng phát triển khá mạnh ở nhiều nơi. Đặc biệt ở miền Nam Việt Nam là đất lành cho Phật Đạo, điều mà Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật giáo Hòa Hảo thường xuyên nhắc đến.

c/ Sự nghiệp lưu truyền cho hậu thế

Đức Huỳnh Giáo chủ khi thành lập Phật giáo Hòa Hảo nối tiếp truyền thống Bửu Sơn Kỳ Hương, đã tích cực hoạt động và mang lại nhiều thành quả khó tưởng tượng. Chỉ sau bảy năm khai đạo, số tín đồ đã lên khoảng hai triệu người. Ngài đã đặt vững vàng nền móng của Tịnh Độ tông Đại thừa cho Phật tử cư gia tại miền Nam Việt Nam. Một công trình vô cùng to tát, tiếp tục phát triển cho đến ngày nay. Mới đầu tín đồ đa số là người nông dân nghèo nàn chất phác. Càng về sau càng có sự tham gia của mọi thành phần. Nhờ đâu mà đạt được thành tựu đó, phải chăng do nơi trí tuệ như biển của vị Giáo Chủ? Trí tuệ đó nằm ở phạm trù nào? Giáo dân thuần thành của Ngài, bất kể thời đại, luôn thương yêu tôn kính Ngài vì những đức tánh cá nhân của một vị tu hành đắc pháp: từ bi mà dũng cảm, khôn ngoan mà khiêm tốn, sinh động mà trầm tĩnh. Những vị mới vào đạo chú trọng đến tài năng và sự nghiệp của Ngài nhiều hơn.

Sự nghiệp đó vốn là kinh sách, thi văn, luận luật về đạo pháp và triết lý tôn giáo. Bất cứ  tôn giáo nào trên thế giới được trường tồn cũng nhờ một sự nghiệp thi văn, ngoài tài năng xuất chúng và tấm gương đức hạnh của bậc giáo chủ.

Đây là bốn câu miêu tả về sự nghiệp của Huỳnh Giáo chủ lưu lại cho thế gian. Phải nói là một kho tàng Đạo, Pháp, và Siêu Khoa học cho đời sau. Đức Thầy không chỉ là giáo chủ của một tôn phái Phật giáo cho một quốc gia nhỏ bé. Trước tiên, thế giới sẽ biết đến Ngài qua sự nghiệp văn thi lưu lại của Ngài. Một công trình tiềm ẩn các pháp vi diệu, bao gồm cả các dữ kiện siêu khoa  học đã được thời gian kiểm chứng.

Đây là những chứng nghiệm trong cõi đời, cuộc sống làm người tu tập của Ngài: Lấy thi hứng làm thơ từ cõi rừng đào hoa tiên cảnh, là nơi con người tu tập có thể đến được. Người tu giữa dòng đời, càng bị khảo đảo nhiều bởi nghịch cảnh, nếu vượt qua được sẽ càng đắc năng lực cao gấp vạn lần. Đúng thời đúng lúc, bầu trời chân thật của vị minh quân sẽ xuất lộ.

Cuối cùng, khi thời đến, sự nghiệp về giảng bày chân đạo lý qua thi văn sẽ cao siêu và lừng lẫy (trong nhân loại). Đây chính là sự nghiệp bền vững của Ngài lưu lại cho thế gian: Tập Sấm Giảng Thi Văn, trong đó có mô tả cả Đạo Pháp lẫn Cuộc Đời của Ngài Huỳnh Giáo Chủ.

Đào nguyên tuyệt diệu, nguồn thi tứ,
Thoát tâm khảo đảo, phát vạn năng.
Thời đến, ánh dương, trời chân thật,
Vận lên, thi nghiệp, tối thượng thăng

100 NĂM SAU: Áng Thi Định Vị và Khuyến Tấn cho Thế Hệ Mới

Áng thi thứ nhì, có thể mệnh danh là 100 NĂM SAU, nằm trong cuối quyển thứ V trong Sấm Giảng. Đó là một bài thơ thất ngôn tứ cú cuối cùng Đức Thầy viết trong Sấm Giảng, một bài thơ Khoán Thủ vi diệu, mang ý nghĩa sâu xa khôn lường. Bài thơ bốn câu đúc kết Sấm Giảng đó được viết năm 1939, xác định lại Vị thế, Đạo, và Tín đồ của Ngài, qua bốn câu ngắn ngủi:

VÔ-thượng thậm thâm dĩ ý truyền,
DANH ngôn chép để rạch đàng Tiên.
CƯ-gia Tịnh-Độ tâm viên-mãn,
SĨ xuất văn-từ dốc dạy khuyên.

Bốn chữ đầu là tên của tác giả quyển Sấm Giảng số V, tức là VÔ DANH CƯ SĨ, một trong các bút hiệu của Đức Thầy. Ngoài ra ba chữ “dĩ ý truyền” khiến nhiều người liên tưởng đến câu chuyện “niêm hoa vi tiếu” khi Đức Phật cầm đóa mỉm cười, và chỉ có ngài Ca Diếp hiểu được ý nghĩa “tâm truyền tâm” đó, vốn là một sự truyền ngôi vị. Phải chăng ở đây ngụ ý sự truyền vị giữa Phật Thầy Tây An và Đức Thầy?

Khi chuyển dịch Anh ngữ, vào 80 năm sau, một số bất ngờ huyền diệu khác đã lộ diện. Đây là bản chuyển ngữ:

SUPREME unfathomable transmission by the mind,
NAME, and words transcribed to open the Path of Deities.
LAYMAN of the Pure Land with the absolute mind,
SCHOLAR, strives hard to give teachings and urges.

Theo lối khoán thủ, Danh Xưng của ngài Huỳnh giáo chủ qua Anh ngữ là SUPREME NAME LAYMAN SCHOLAR. Có nghĩa là: VÔ-THƯỢNG-DANH CƯ-SĨ ĐẠI-SĨ.

Chữ “Scholar” trong tiếng Anh chỉ vị học giả, hay đại học sĩ, hay đại sĩ. Đại Sĩ là một danh hiệu khác của bậc BỒ TÁT. Đây lại là Vô Thượng Đại Sĩ, tức ĐẠI BỒ-TÁT. Đây rất có thể là một định vị của Huỳnh Giáo chủ, hoặc một tiên tri về vai trò của Ngài trên thế giới tương lai. Đây là Tiên tri Cuối cùng về sự Chuyển hóa Huyền diệu của Ngài vào Thế giới Tương lai (maybe that’s the magical transformation of The Virtuous Founder, or his LAST ORACLE to predict his Future Role in the World).

Đây cũng là một sự tiên tri và khuyến tấn của ngài Huỳnh Giáo Chủ dành cho các tín đồ thế hệ tương lai: Hãy trở thành người (cư sĩ) học Phật như các học giả, các đại học sĩ. Cho xứng đáng với Đức Huỳnh Giáo Chủ,  một bậc phi thường lưu lại một tuyệt đại tác phẩm, một sự nghiệp kiệt xuất, và một tấm gương vượt ngoài tưởng tượng. Sự khuyến tấn này ngài đã đưa ra vào cuối quyển V như một chỉ hướng cho Phật giáo Hòa Hảo đi vào tương lai, cuộc hành trình mới cho 100 năm sau.

Sự xuất hiện mà ngài đã quy định trước thật quá ngắn ngủi, vốn mang mục tiêu  cứu độ cho dân chúng lúc đó sắp lâm vào nguy cơ diệt vong, cho nên ngài chưa đi sâu vào việc trình bày Đạo Pháp cao sâu mà chỉ lưu lại những chìa khóa hữu ích. Tuy nhiên ngài luôn khuyến khích tín đồ tu trì và tiến bộ, đọc kinh liễu nghĩa, thay vì tụng đọc cho hay mà không nắm vững tâm ý chư Phật chư Bồ Tát, và nhất là phải thực hành tu tập.

Đạo Pháp của ngài tuy giản dị nhằm đáp ứng nhu cầu nhân sinh trong buổi dầu sôi lửa bỏng, nhưng nếu tìm hiểu sẽ thấy có đầy đủ các tinh hoa Đạo thâm sâu, vi tế. Những chìa khóa bước vào kho tàng Phật Pháp. Ngay trên tựa đề “Sấm Giảng” cũng mang hàm ý cao siêu. Khi dịch cho người nước ngoài bằng ngôn ngữ thực tiễn và phân tích của họ, phải tách ra làm Sấm và Giảng cho dễ hiểu. Nhưng thực ra, nếu dùng tinh thần Đạo mà đọc và nghiên cứu, thì hai chữ Sấm-Giảng phải đi sát cạnh nhau. Vì cả hai chỉ là một. Nhất Thể chứ không phải Nhị Nguyên. Trong Sấm đã có Giảng, và trong Giảng luôn có Sấm. Sấm là Thu (các pháp thượng căn) và Giảng là Phát (các pháp phù hợp) cho nhân sanh tu tập. Ngược lại, nếu đã nắm bắt được Giảng tức nhiên sẽ hiểu biết được Sấm. Các pháp vốn sẵn có bên trong lẫn bên ngoài của từng cá thể, tương ứng với tầng số của vũ trụ.

Điều đó cho thấy. Sấm Giảng tuy xuất hiện vội vàng trong cuộc nhân sinh ngắn ngủi của Đức Thầy, nhưng không chỉ đơn điệu dành riêng cho giới bình dân giản dị, chân chất, mà cho cả một thế giới Hòa Hảo, hay thế giới Đại Đồng (Concordance) một pháp môn đơn giản mà trọn lành trọn đủ, nơi nào cũng phù hợp được. Tương tự như tính cách của bát cháo sữa đề hồ do tín nữ Thiện Sinh (Sujãta) cúng dường cho đức Thích Ca trước khi Ngài vào nhập định đắc Đạo thành Phật. Vâng, chỉ cần một bát cháo sữa đơn sơ mà vừa đủ bổ dưỡng, và xuất hiện đúng thời đúng lúc, giúp cho vị Đại Hành Giả đủ sức để thành Phật! Vạn pháp vốn vô ngã, chỉ là phương tiện đưa hành giả đắc thành Phật Đạo!

BÊN CẠNH CHÚNG TA…

Khi lìa bỏ xác thân tứ đại, thì linh thần, thần thức, A lại da thức, hay “cái biết” của một chúng sanh sẽ đi về đâu, hay chỉ tương tự như một làn sóng năng lượng siêu hình (energy stream or energy wave)? Một vị đắc đạo sẽ đi về đâu và thể hiện thần thông ra sao? Phải chăng các vị đó sẽ mang theo năng lượng trí tuệ và năng lượng từ bi, để tỏa trùm khắp không gian và thời gian, theo phương cách cứu độ chúng sanh của chư Phật chư Bồ Tát? Làm sao để xác định?

Những câu hỏi này là người có suy tư về đời sống luôn hằng đặt ra. Câu trả lời có thể chư vị đắc đạo từng đưa ra, nhưng con người khó hoàn toàn tin tưởng nếu chưa dược dùng chính nhục thân tứ đại với lục quan bình thường ra nghiệm chứng. Nếu là Phật tử và tin vào những điều do Đức Đại Giác Ngộ chỉ dạy chúng sanh qua kinh điển, chúng ta phải hiểu rằng, năng lực của chư vị bao trùm không gian và thời gian (thời gian không gian của phàm nhân rất hạn hẹp, ngắn ngủi không có gì đáng kể so với sự siêu vượt của các đấng Tịch Tĩnh), cho nên việc xuất hiện hoặc  tái sanh của chư vị có thể chẳng phải là điều bất khả thi. Đức Phật có dạy về các thần thông (ngũ thông, lục thông) của các vị đắc pháp, và trong đời thường có thể nhiều vị có duyên dược tiếp xúc cùng một số vị đắc pháp và được chứng nghiệm ít nhiều các pháp thần thông.

Các đệ tử trung thành với Đức Thầy và tu tập đúng theo chỉ dạy của Ngài tất có những vị chứng đắc, từng phò trợ cho Đạo Pháp của ngài kéo dài và thăng hoa được xuyên suốt ba phần tư thế kỷ sau khi giáo chủ đã vắng bóng. Điều đáng tiếc nhất là ngài đã ra đi quá sớm, bằng không Đạo Pháp do ngài lập ra ắt sẽ vi diệu hơn nữa, giúp cho vô số tín đồ đắc Phật Pháp tại thế.

Liệu trăm năm sau Ngài có quay trở lại chăng? Bàn cờ thế giới sau trăm năm ló dạng cho thấy đang trên đà chuyển hóa quay về lối mòn tàn hoại cũ. Quả đất bị đe dọa bởi ô trược, bởi khí nóng, sự lạm dụng của khoa học loài người… Chiến tranh (nguyên tử) ở mức độ hủy diệt thế giới vẫn tràn đầy đe dọa… Sự tàn ác trược lậu của loài người thoạt nhìn có vẻ giảm bớt, nhưng xét kỹ chỉ là tinh vi hơn. Không biết loài người còn cơ hội cứu vãn từ Bên Trên chăng? Chỉ biết, Sấm Giảng sau trăm năm vẫn còn chính xác, hữu dụng, là phương tiện dẫn dắt và cứu độ loài người bước vào Phật Đạo hiển bày…

Sau cùng, Đức Thầy có thật sự vắng mặt chăng? Câu hỏi này thông thường mang ngụ ý: Người có lìa bỏ xác phàm chăng? Nếu là người tu học và hết lòng thương Thầy mến Đạo hẳn không cần hỏi như vậy, vì rất nhiều người có hạnh ngộ diện kiến ngài. Hoặc có thể cảm nhận được năng lượng bao trùm trong không gian của những bậc đắc đạo. Cầu xin cho mọi Phật tử, mọi chúng sanh kính yêu các Ngài được có duyên hạnh ngộ cùng các Ngài!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Nam Mô A Di Đà Phật,
Nam Mô Kim Sơn Phật,
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

*

Đức Huỳnh Giáo Chủ

100 YEARS AGO, 100 YEARS LATER, in 2 inconceivable poems composed by VIRTUOUS FOUNDER HUỲNH

The Virtuous Founder Huỳnh was one of the most inconceivable mysteries about the world’s men of outstanding wisdom and power in the last century. How to explain the case of a young man nineteen-years-old, who could hardly go to school due to long-lasting illness; suddenly he woke up, then, in only a few months, after a short visit to the mystical mountains, he was enlightened, knowing everything, founding a Buddhist school. A few months later, he got hundred-thousands of believers, wrote a sensational book of Oracles & Teachings (containing all accurate predictions and Buddhist-wisdom teachings). After a few years of uninterrupted hard working, his voice was so powerful to his two million followers; also, too menacing for the political parties. His disappearance was of a sudden, in the same way as his appearance.  The strangest detail to be noted: He’d already described those events in His books, years ago, when he made his first contacts to the world.

Today, his name is recorded in almost all the world’s dictionaries. They still give brief references and refer him under various epithets: the Founder, the Prophet, the Philosopher, the Revolutionist. But still, none has a touch upon Him as a “Great Poet.” Why being a Great Poet is important? Firstly, He is a Great Poet. Secondly, Great Poets can touch hearts and open minds, paving the way for Religion.

Vietnamese people love His poems. Simple, candid, open-up, pleasant but smart,  affable but vigilant, quite easy to understand, easy to remember even though the meanings are profound and valuable. He composed so easily, just like wrote them out from His kind heart, from His bright wisdom. With time, His teaching poems have been so loved and celebrated. Time goes by; more and more people read, chant, sing His poems. In the beginning, He composed poems to chant for poor and low-educated. Later on, educated people recognized His talents and joined His groups, bringing their own poems to quest for religious teachings. Such a way of teaching and expounding was very effective. Maybe His image as a prodigy Buddhist Master was too prominent and respectful; therefore, people did not dare to refer to Him as “Great Poet.” He himself claimed that epithet on many occasions, even in His poems.

That is such a waste. The Virtuous Master’s poems are amazing and precious. They are wonderful in several ways, since He composed in various fields and standards, and was successful in any of them. Oracles, teachings, religion, practice, dissertation, debate, including story-telling and humorous critics; in Vietnamese and Chinese Han, in common style, erudite style; always carrying the essential religious teachings. How come His writing style was so versatile? Remember that He claimed in His works many times about “one Master and three servants” who spiritually composed the books. All colors offered to all types and levels of readers and learners.

Below, we will study His two amazing poems, composed in His unique style of mixed-categories poem, that means, they are oracles, teachings, methodology, history, prophecies, all-in-one truly beautiful poems.

They are the Great Poems, ready for the world. They have beautiful colors of the masterpieces, with all quality of visualization, imagination, creation, interpretation, mastering the arts and ideas.  The words here are profound and genius.  In brief, they are exceptional and inventive. New words are like precious gems that come from the religion of wisdom and splendor. His name deserved to be next to the Greatest Zen Poets. His name is Virtuous Master Huỳnh.

Now, we are going to read two MASTERPIECES of past and present. One depicts the portrait of the Great Poet in 100 years ago, and the other carries His words to His future readers of 100 years later.

100 YEARS AGO: Portrait of the Virtuous Master

The First Poem depicts a portrait of the Master of 100 years ago, was composed in the year 1939. It adapts the difficult style of Chinese Tang poetry, includes three parts of seven-words eight-verses, in Chinese characters. It is a supreme Oracles-Teachings-Poetry that reflects the talent and wisdom of a nineteen-year-old Virtuous Master. Besides mastering the very strict rules of poetry, He could dexterously draw His mysterious portrait and biography in a few selected words. He told about who he had been in past lives, why He appeared in this world, what would His work be, and its effects within a hundred years. Moreover, he gave the main keys to Buddhism in a few words. A composition of ancient poetry so condensed but still too gorgeous, a beyond-splendid poem.

The poetry displays a graceful view with beautiful images. The words are more than accurate; they show wisdom, creation, and emotion.  Although the contents convey religion and prophecy in-depth, they express with such dexterity that makes readers feel poetry. This poem can master all challenges of difficulty and divergency in just a few words, prove an extra-terrestrial talent. An expected genius can hardly handle such a strangely condensed mixture of philosophy and beauty in a natural but inventive way. Especially, how could He invent the miraculous keys to open the door of a supreme Religion, and how could he predict his own future, step-by-step of life and death on this earth? Such work requires a super-human exertion, with sublime wisdom, a demonstration of Buddha’s fruition.

Following is the poem:

REVEALING THE SECRETS

Urging co-religionists to search for a profound phenomenon(1),
The states will be at peace with good scholars.
Infinitesimal sand(2) in the Eastern sea had known serene music,
The jade palace in Southern peak will reveal the Deities(3).
Courage may be too blunt but prove true and straightforward,
Powerful songs of sacrifice for the nation show up-high loyalty.
Leaving the Buddha-sight to get back to South Vietnam(4),
Destroying suffering; now revive in an incredible time.
PRECIOUS-gems profusely in this area hides a strange story,
MOUNTAIN-tower revealed the outer of a mystical side.
STRANGE-and-deep person with a borrowed name composes
 poems like the water stream(5),

FRAGRANCE in the dusk absorbed a profound miracle.
FIVE years and six months(6) spent in cold and hunger,
MOUNTS strikingly covered in clouds enlightens a true man.
SEVEN years(7) in concord for faithful men under a kind head,
MOUNTAINS’ high peaks will have a wise leader reigns over.
Peace in the world will be close to the Celestial sphere(8),
The daring men have a heroic force that overcomes decadence.
Under the vault of heaven, true practitioners live in a hermitage,
With religion, good commoners in the world can live in peace.
Cherry blossoms are an inspiration source for amazing writing,
Facing adversities, the mind will develop ten thousand forces(9).
When the waiting time to come, the true sky will appear,
Good fate will visibly show a literature work to be sublime(10).

A. A Few Notes

1. A profound phenomenon: This poem, written in 1939, in ancient Han-Nho letters, is a strong oracle about the Identity and Future Works of the Virtuous Master. He discovered his own mysterious and profound appearance and gave accurate predictions that can prove now.

2. Infinitesimal sands: Eastern sea sands also know serene music. It is a beautiful verse about the (Buddhist) suchness. In suchness, emptiness, or oneness, everything is of the same root. In any infinitesimal dirt contains all essential elements, including the sound created by the friction with other objects. The Eastern sea here represents the rescue’s power of Bodhisattva Guanyin. A stanza depicts the author’s deep root as a Buddhist enlightener.

3. The Deities: The jade palace in Southern peak will reveal many Deities, enlightened at the same place, starting by the Buddha Master of Tây An, then his disciples and reincarnations.

 4. Leaving the Buddha-sight to get back to South Vietnam: He came from the Seven-Mountains (where he practiced and realized) and got back to Southern Vietnam to found his Buddhist school.

5. A strange-and-deep person: with a borrowed name, composed poems like the water stream. That is Virtuous Master true, accurate, and iconic self-portrait.

6. Five years six months: Virtuous Master started to found his religion by July 1939. He suffered a very bad time, due to WWII and under the strict French domination. That was a struggling period, in cold and hunger (literally and figuratively), he was even detained in the psychiatric hospital at Chợ Quán. In 1945, when WWII was near the end, he could work more freely. In 1945, when WWII was near the end, he could work more freely. At the beginning of 1946, he could organize and strengthen his religious and social foundation.

7. Seven years: He predicted his working time on earth in this sentence. By the end of 1939, Precious Master created his religious school and has been working in harmony between his men like the kind leader. He left in April 1947, and the time was still within seven years.

8. Peace in the world will be close to the Celestial sphere: This is an oracle about the future of the world. The world will be in peace after WWII. Then it will evolute to a higher level of morality, humanism, and religion.

9. Facing adversities, the mind will develop ten thousand forces: This is likely a dexterous means to practice the way, by using the reactive force and develop stronger forces. When practitioners can overcome adversities, they would attain a stronger mind force and energy.

10. A literature work to be sublime: His prediction about his future role in the world. Not only a founder of a new Buddhist school (or sect) in a small country, he will be known and praised worldwide, firstly, through his deep, meaningful, wonderful literature works (Oracles-Teachings).

B. Religion & Oracle & Poetry

Rare are the ones who can master all these three different fields of Religion & Oracle & Poetry in the same work. Hard is the detachment of these three factors in the same poem composed by Virtuous Master. His naturally exceptional talent created such harmony work. He only decreased or increased the elements of the combination according to the objects or the readers. The simple poems that He called “easy” have been loved by the commoners for decades, while the deeper poems – especially the ones written in difficult Chinese-Han words – are not only the profound ones but the ones with highly “Poetic Substance.” That is the case of this poem titled “Revealing the Secrets.”

 Let’s study a sample of His poem, a seven-word sentence in this poem, to see how Religion&Oracle&Poetry could work together in a mere verse.

Infinitesimal sands in the Eastern sea had known serene music

This verse is a “multipower key” to open many doors of  Religion&Oracle&Poetry. Let analyze them with a few possible distinctions (from common sense).

1. Poetic Substance: “Infinitesimal sand” (Sa-vi) is an outstanding revelation-word with an incredibly beautiful vision. A creation of word given by the author. The ultra-small molecule (or atomic element) of sand? In Buddhist Sũtra, the analogous sanskrit word is Paramanu, or simpler, Anu, English translation: molecule of dust(?).

Here the words “infinitesimal sand” and “infinitesimal dust” are used to prove the ultra-subtle vision of the author. Why infinitesimal sand but not dust? The sand has a Poetic Substance. Poetic Substance comes from recognition, perception, emotion, imagination, vision, and, most of all, the connection or relationship between the special beauty of an object and the personal talent of the poet.  The sand, under a microscopic vision, is more beautiful, more magical. The sand of a river or ocean is much more beautiful a vision, due to the harmonious relationship with the beauty of an ocean. Also, sand is supposed to be cleaner and quieter than dust.

Those infinitesimal sands that wallowed impregnated too long in the ocean, they might carry on the sounds of the sands’ rubbing each other, and all kind of related sounds into the (very long time evolution process). How marvelous is the vision of the infinitesimal sands inside the astronomical ocean, the placidity of the sands inside the agitation of the ocean’s water, wind, and waves? That is the ultra-poetic material.

2. Meditative Visions: Oracles come from visions. The master of meditation often has special visions; many of them belong to the future. Most of the poems of the meditation (or Zen) masters are very short but impressive, leaving a touch of vision. They are not the description of the outer sensual beauty, but the direct inner insight of the (real) reality.

Take a typical sample from the celebrated poem in the ancient poetry “The Crane’s Bill” of Zen Master Dogen Kigen (1200-1252), who was a Japanese Buddhist priest, writer, poet, philosopher, and founder of the Sōtō school of Zen in Japan. He had been adored and worshipped by Japanese Buddhists as a Great Boddhisatva. Let’s study his vision:

 Four and fifty years
 I’ve hung the sky with stars.
 Now I leap through –
What shattering!

Zen poetry sounds so beautiful, but its beauty comes from the far-sighted vision, from the truth, from the realization, from the suchness. The seeing, the vision of a Meditation Master, (or the eyes of wisdom), is different from the worldly beings. That’s why the Eminent Masters can see the future.

If you prefer the poem form, this simple verse of Virtuous Master could be re-arranged in the format of a Zen poetry, or a Haiku:

Infinitesimal sands
in the Eastern sea
had known
serene music.

Could you see, through this poetry, how far a realized vision could reach? The infinitesimal sand should have formed and reformed since the initial formation of the cosmos when the four elements – earth, water, wind, and fire – had started to assemble and accumulate. Long, long time after, the minuscule sands had been so impregnated into the water of the East ocean, they got accustomed to the incessantly repetitive sounds of nature. The Eastern ocean here represents the rescue’s power of Bodhisattva Guanyin, who has been residing over that ocean of afflictions to save sentient beings by the compassion.

3. The Religion: Meditation is Religion; it is the gate opened to the Way of realization. This method does not need speech but is full of speeches.

Below are a few teachings of the  Religion related to those quoted seven words. The vision of the “infinitesimal sand” should come from an enlightener of the religious way! They have the (six) supernatural faculties and can utilize their Celestial eyes to see the creation of the universe, from the smallest to the largest existences. In Buddha’s Teachings, the Metaphysics, the Supernatural sciences are included. Buddha has always been the most respected Religious Master from greatest scientists (like Einstein) due to His unbelievable knowledge of everything, especially regarding the infinite cosmos.

The form is formless; formless is form. In the formless emptiness contains the seeds of form. That is the very beginning of the universe — the quintessence of Prajnã-parãmita. Like everything in the world, the infinitesimal sand that might be the very origin of the sands had been formed by the coordination, the relationship, or the primary karmic of actions of things. The sitting sands might carry a higher force of stillness than the specks of dust floating in the air. Sands stayed in motionlessness. Immobility, calmness could create a force. Meditation is to get the force from tranquillity and stillness.  So, from the force of tranquillity, the sands could impregnate into the cosmic sounds.  All sounds had been coming from the collision. The very first collision of the infinitesimal sands had been an each-other relationship. All relationships would be karma, even if they had come from a very-far-away beginning of the world. Then, they had combined into cycles of uninterrupted cosmic evolution.

So, those lucky infinitesimal sands that stuck together in the Eastern ocean, impregnated in the compassionate nectar of the Great Bodhisattva Guanyin. The “serene music” or divine music mentioned here could be the natural music of the sands in touch of each other, or the wind in touch with the water to cause the wave. Or else, that was the divine magic of the Great Bodhisattva, who created the meditation of “the sound of the ocean” [hải triều âm]. Whatever it was, this vision could raise all kinds of imagination and surpass all kinds of imagination.

Now, please read the verse again to feel the magic of the words from an Enlightened One:

“Infinitesimal sand
in the Eastern sea
had known
serene music.”

C. The Origins and the Portrait

Virtuous Master gave various names and portraits in His work, Oracles-Teachings, and Literature. He took different forms depending on the objects and occasions: from Mad, Crazy, to the general, the king, a man, a girl, from a Deity to a Bodhisattva, etc.

He had so many names and forms, maybe to adapt to the situation. He founded the Religion in such a short time; this was an extraordinary situation, so, He needed to apply extraordinary means. The variations of forms depended on the situations, levels of His followers, the culture, and tradition.

In the religious aspect, this is a demonstration of the previous lives and reincarnations. According to the Jatakas Tales, [Sũtra Bổn Sanh], the previous births of Gautama Buddha had been in both human and animal forms. The future Buddha might appear as a king, an outcast, a god, an elephant—but, in whatever form, he exhibited some virtue. Oracles-Teachings can offer lively cases of rebirths and transmigration of souls to study.

Although the reincarnation is quite popular in Tibetan Buddhism, this open-case offered by the Founder of Hòa Hảo Buddhism, in His books as in His life, could be a great source for the research to obtain a clear understanding leading to the conviction.

The jade palace in Southern peak will reveal the Deities.
Courage may be too blunt but prove true and straightforward,
Powerful songs of sacrifice for the nation show up-high loyalty.
Leaving the Buddha-sight to get back to South Vietnam,
Destroying suffering; now revive in an incredible time.

PRECIOUS-gems profusely in this area hides a strange story,
MOUNTAIN-tower revealed the outer of a mystical side.
STRANGE-and-deep person with a borrowed name composes
poems like the water stream,
FRAGRANCE in the dusk absorbed a profound miracle.

The origins of Virtuous Founder Huỳnh: The jade palace in Southern peak will reveal the Deities. They were the Buddha Master Tây An, his disciples, and his reincarnations. The last One was the Virtuous Founder Huỳnh. In many previous lives, Virtuous Master was courage hero, loyal and straightforward. His sacrifice for the country and people were so high like a resonant ode.

The portrait and activities in this present lifetime: Due to a mission, he has to leave the Buddha’s realm to get back to South Vietnam. Although he’s already destroyed all suffering, now he should live in an incredible time in the mundane world.

On the mountain of precious gems, he had a mysterious life, waiting for the right time. He was a strange and deep person with a borrowed name and the talent of composing poems fluently like the water stream. His words are the essence of  Dharma, sent out a fragrance of profound miracle.

D. The prophecies about His time frame and transmission

His poems composed by the end of 1939, He wrote down the prophecies about His time frame, disappearance, and transmitted works for life and Religion.

a/ His time frame in the human world

FIVE years and six months spent in cold and hunger,
MOUNTS strikingly covered in clouds enlightens a true man.

Alongside with poor commoners during WWII, He has to live five years and six months in cold and hunger. But still, He is the true man, the enlightened man with a virtuous mind.

Virtuous Master founded the Religion in July 1939, composed this poem in November 1939. During this war-time, under the harsh control of the French colonists, He suffered various difficulties. He had to go around the country to preach for people and gave treatment, physically and mentally, to them. When the number of followers mounted to a hundred thousand, he became a subject of suspicion and harassment. He was forced into a house arrest in the sanatorium Chợ Quán with the judgment of insanity. He continued the preaching in hospital, then, finally got released. In 1945, when WWII was near the end, He could have free activities with His followers. The suffering time was predicted exactly in 5 years, 6 months.

SEVEN years in concord between believers and a kind Master,
MOUNTAINS’ high peaks will have a wise leader reigns over.

Another time frame’s prediction was about his activities with the faithful believers: Seven years in concord between faithful men and the kind Master, a top leader of the celestial Golden Mountain. Again, these two verses of prophecies can be proved afterward about the Virtuous Master’s time to work in life.  From 7/1939 to 4/1947, the day of His disappearance, the time was still within seven years, exactly as in the initial prophecies. He knew His time and didn’t care about life and death.

b/ The world would follow the Religious Way

Peace in the world will be close to the Celestial sphere,
The daring men have a heroic force that overcomes decadence.
Under the vault of heaven, true practitioners live in a hermitage,
With religion, good commoners in the world can live in peace.

That is a prophecy about the peace on earth. He believed that the world would be better with humanism and religion, near to the Celestial sphere, bold prediction in 1939. But all of that happened after the war. The world got scared of the Big Wars and promoted humanity and religion. They respected equality and strove to apply laws to protect people against evilness.

He also reminded the practitioners to live in tranquility and hermitage under the immense sky covering everything. The good people should respect of Religion to have a good life.

c/ The Works transmitted to the posterity

Virtuous Founder Huỳnh had tremendous activities during His lifetime, that brought unimaginable results. Only after seven years of the foundation, the number of believers increased to two million. He set up a steady and strong foundation of Mahayana Pure Land for the lay Buddhists, mostly in South Vietnam. This colossal success is continuing until nowadays. 

At first, most of the believers were poor and simple commoners in the countryside. Later on, more and more educated and sophisticated persons joined in with all kinds of social backgrounds. How could he make it? Thanks to the ocean of wisdom or compassion? Or else, the ocean of suffering? His faithful followers had always loved Him due to His virtues: compassionate but brave, Wise but humble, active but composed. New believers were attracted by His talents of preaching and treatment, also, in His sacred works.

The sacred works compiled of His wisdom in Buddhist philosophy, literature, practice, and, especially, His visions and prophecies. Any religion in the world would only survive thanks to Books. Religious scripture is one of the Works of a religious founder, directly, or indirectly – through the help of talented faithful.

Virtuous Founder Huỳnh’s literary Work is a precious treasure of Religion, Methodology, Philosophy, and  Metaphysics. With such a treasure, once opened and explained to the world, Virtuous Master’s wisdom and compassion will be a great rescue in the ocean of suffering. His literature Works is His heritage for humanity.

These four following verses describe the Works beautifully that  Virtuous Founder Huỳnh transmitted to the posterity. As in a previous verse, He stated that his poems were like a water stream. He took inspiration from the divine peach blossom that men could reach in meditation. Also, another force coming from practicing was in the way practitioners facing and overcoming adversities to train the mind and develop great energetic forces.

In the end, He gave some more prophecies about His role in the future world: When the waiting time to come, the true sky will appear. The true sky means the true Master, highest leader,

Good fate will visibly show a literature work to be sublime (in the world). His Work, the world’s heritage, is the Oracles-Teachings and Literature. 

Cherry blossoms are an inspiration source for amazing writing,
Facing adversities, the mind will develop ten thousand forces.
When the waiting time to come, the true sky will appear,
Good fate will visibly show a literature work to be sublime.

100 YEARS LATER: Self-Assertion and Urge to the Next Generations

The second poem reflects the Virtuous Master’s effects in 100 YEARS LATER. It is a short poem of seven-words four-verses, at the end of Oracles-Teachings, Volume V. It is the last poem that the Virtuous Master compiled in His very first book in 1939. It takes the form of a Khoán Thủ poem, a kind of poem that all the first words of each sentence carry a meaning. Below is the Vietnamese version:

VÔ-thượng thậm thâm dĩ ý truyền,
DANH ngôn chép để rạch đàng Tiên.
CƯ-gia Tịnh-Độ tâm viên-mãn,
SĨ xuất văn-từ dốc dạy khuyên.

 Four first words in Vietnamese are the name of the author of Volume V, which is VÔ DANH CƯ SĨ, or NO NAME LAYMAN, a pen-name of the Virtuous Master. Besides, the three words “dĩ ý truyền” (transmission by the mind) carry an associated meaning to the story of the Flower Sermon, regarding the origin of Zen Buddhism in which Sakyamuni Buddha transmitted direct prajna (wisdom) and to the disciple Mahãkasyapa. Then the Buddha “pick up a flower, with a subtle smile,” only Mahãkasyapa understood the meanings by way of “mind to mind,” this was also the transmission of the Patriarch position. Do these words “transmission by the mind” suggest the same meaning of a transmission between the Buddha Master of Tây An and the Virtuous Master Huỳnh?

Eighty years later, when Oracles-Teachings translated into English, due to the clarification of a new language, a few amazing facts have shown out. Below is the English translation:

SUPREME unfathomable transmission by the mind,
NAME, and words transcribed to open the Path of Deities.
LAYMAN of the Pure Land with the absolute mind,
SCHOLAR, strives hard to give teachings and urges.

The English version gives a greater name with a miraculous meaning. Did the Virtuous Founder meticulously prepare for such a transformation that would happen several decades later, or he just wanted to put down the LAST ORACLE that predicted his Future Role in the World? The NEW NAME, literally in English: SUPREME NAME LAYMAN SCHOLAR; or SUPREME-NAME SCHOLAR LAYMAN

The word “Scholar” in English means the Erudite Scholar. But the Supreme-Name Scholar (Vô Thượng Sĩ) is another title of the Great Bodhisattva, Mahã-Bodhisattva (ĐẠI BỒ-TÁT.) That was probably a Self-Assertion about His Spiritual Position, leaving by the Religious Founder Huỳnh; this also could be an assertive Oracle about His role in the Future World.

That might also be the Religious Founder Huỳnh’s Oracle regarding the future and motivation of his Religion, and he wanted to entrust it to his next generations of believers: Be the (laypersons) who study Buddhism like the scholars because you have an extraordinary Religious Founder, with unimaginable knowledge, cause, and lifetime, who left an amazing scripture for the world. The motivation that he left in the last Volume V was like a direction to Hòa Hảo Buddhism in the future. His Buddhism appearance aimed to rescue the people facing the catastrophe of destruction, both bodies and souls. Therefore, he did not expound in-depth, only gave keys to the way of liberation. However, he always encouraged believers to practice, advance, and transform into superior Buddhists. He expected his Buddhists to read and understand the Sũtras in-depth, to care only of the true mind, not the outside appearance. Reading any Buddhist sũtra or dissertation, the practitioners need to understand the initiatives of Buddha and Bodhisattvas.

The Oracles-Teachings, although emerged quite hastily within the limited lifetime of the Virtuous Master Huỳnh Phú Sổ, it did not solely aim to the simple commoners in a tiny community, but it should be to the world in Concordance (Hòa Hảo). It is a Buddhist Dharma, very simple but truly effective, supportive, practicable, adaptable. And the best aspect may come from the incredible appearance of the Founder Huỳnh Phú Sổ. He is a Dharma, an enigmatic living Oracle for the world. All Dharmas are selfless, and they are just dexterous means to guide practitioners on the Way to attain Boddhi fruitions!

CLOSE TO US…

When we leave the physical body of four elements, where will our soul go? The namely spirit, or original spirit that carrying the base consciousness (Ãlaya-vijnãna) [A lại da thức], or simply “the knowing” of a sentient being; where will it go, how will it look? Is it only a spiritual energy stream or energy wave? How could a realizer of the Way or an Enlightener master his consciousness with full wisdom and compassion and go to another sphere?

How to define and confirm? Those are perpetual questions of living beings. Various answers had been given by the Great Religions in the world. However, to most people, those answers are only a question of belief and trust. Especially, people in modern time, even the ones following any religion, they still have doubts. The religions might give them the answers for a good quality of life, with morality and wholesomeness, with some order from the divinity in the sky to the humankind on the earth, and a possibly good solution for their dead souls. They can’t have complete trust unless the physical sciences can make direct experiences and get results on the ordinary body of four elements and six ordinary senses.

The Buddha, the Fully Enlightened, the Knower of the worlds, taught a lot about life and death. He advised people to experience before trust. His teachings aimed at Wisdom, not to conviction. A myriad of his Buddhist disciples, monks, masters, practitioners, followers, believers, could attain fruitions and understand the truth.  According to the Discourses (Sũtras) and the Philosophy (Abhidharma), the power, or force, or energy of a great realizer are very strong and can spread over time and space. The human world’s time and space are very short and small compared to the transcendental faculties (or supernatural faculties) of the Holy ones. Therefore, they can master their life and death. Differently speaking, the appearance and disappearance at the will of the Holy ones is not something impossible. In this life, a large number of great practitioners can experience extraordinary results; and multitude of ordinary believers with good karma could have the chance to meet a Great Master.

Correspondingly, the faithful disciples of Virtuous Master who practices precisely after His teachings could realize fruitions to carry on His Religion for more than three decades after His disappearance. His departure was an inconsolable situation for the faithful followers at the time. Imagine how much more He could teach and help a great number of believers to attain fruition. However, this is not His mission. The divine course had written, and He told in advance about that since He started everything. He came down here to create a solid foundation, provide a living mirror, and leave a transmission with his amazing Book, the Oracles-Teachings and Literature.

Would He come back 100 years later? The world chess game has been likely in a transient cycle of changes and transformations. It is going back on the destructive thorny road, which is worse than a century ago.  The earth is under dangerous menace of pollution, heat, the greenhouse effects, due to the abuse of human sciences. The atomic bombs are still a horrible threat after decades of complicated deals and treasons in the political world. The selfishness and evilness that seemed lessened after WWII now is on the train to get back, not much different than before, only more elaborate.

Will humankind still has the chance of rescue by the High-Above? We can only know that the Virtuous Master’s Oracles-Teachings, is still applicable and accurate after 80 years. It can be a guideline, and a means to save people by stepping onto the Way of the Buddha’s Religion.

Final quest, Is the Virtuous Master really absent? This frequent question usually hints that He might leave His mundane body. A true practitioner or faithful believer often reject such an idea. However, this question doesn’t mean anything in the religious and spiritual perspectives. In time, there have been numerous believers and practitioners could see Him or feel and receive His powerful energy in certain important situations. The compassionate energy streams of the Holy ones spread all over the world. Offer all your mind in your prayers, focus your mind to read and recite His Books, meditate in complete concentration about Him. These are a few successful methods to meet Him again.

Pray for all the Buddhist believers, all sentient beings, to have a chance to see or feel His presence and His compassion!

Namo Sakyamuni Our Master Buddha.
Namo Amida Buddha.
Namo Kim-Sơn Buddha.
Namo The Tranquil Ocean of the Bodhisattvas.

Đức Huỳnh Giáo Chủ

Discover more from Tinh Tấn Magazine

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

One thought on “100 năm trước, 100 năm sau qua hai áng thi tuyệt tác của Đức Huỳnh Giáo Chủ

  1. Xin tác giả Huyền Trí cho đăng thêm một số bài chú giải khác nữa về Sấm Giảng của Đức Thầy Đức Huỳnh Giáo Chủ, rất cám ơn.
    Bài chú giải rất cám ơn
    Xin cho biết thêm về tiểu sử của tác giả Huyền Trí

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *