Tịnh Độ Môn & Thánh Đạo Môn/ Thích Như Điển

*Đọc 10 phút*

Bài HT THÍCH NHƯ ĐIỂN

Đối với Phật Tử Việt Nam chúng ta tu theo pháp môn Tịnh Độ, cũng có nhiều người không quen thuộc với những danh từ Phật Giáo theo lối tu Tịnh Độ của Phật Giáo Nhật Bản, nên hôm nay chúng tôi xin giới thiệu vài nét sơ lược về cách truyền thừa và cách tu tập theo Tịnh Độ Tông do Ngài Pháp Nhiên (Honen) chủ trương và Tịnh Độ Chơn Tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhơn hình thành ở thế kỷ thứ 13 tại Nhật Bản.

Tịnh Độ như chúng ta đã biết; nhưng tại sao gọi là Tịnh Độ Môn? Nếu giải thích đơn giản có nghĩa là: cửa vào Tịnh Độ, hay lối vào, đường vào Tịnh Độ thì cũng ổn. Đây là cách gọi của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn (Shinran Shonin). Điều này có nghĩa là Tịnh Độ do việc thực hành tự lực để cầu nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc sau khi lâm chung. Việc này do chúng ta, những kẻ phàm tình ở cõi Ta Bà này mong muốn được sanh về cõi An Lạc. Việc này dễ nhưng mà khó. Dễ có nghĩa là do lòng từ bi của Đức Phật A Di Đà, giống như một người mẹ hiền thương đàn con trẻ dại thơ ngây, mong muốn điều gì, người Mẹ cũng có thể chiều theo thị hiếu của đứa Con, kể cả đứa con ấy hư hỏng, bất hiếu. Do vậy Ngài Thân Loan quan niệm rằng: Dầu là niệm Phật tự lực, dẫu cho có bị phạm vào tội ngũ nghịch hay Nhứt Xiển Đề đi chăng nữa thì cũng có thể vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc; nhưng phải ở nơi Hạ Phẩm Hạ Sanh trong nhiều kiếp, chứ chưa về Trung Phẩm hay Thượng Phẩm được. Vì những chúng sanh này còn tội lỗi, chưa hoàn thành nơi phẩm vị của Chánh Định Tụ; nên khi sanh về Hạ Phẩm gọi nơi đó là Nghi Thành hay Thai Cung Biên Địa của thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Theo Ngài Thân Loan Thánh Nhơn thì Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ thuộc về Tịnh Độ Môn và niệm Phật tự lực. Dĩ nhiên là việc phát sinh tư tưởng này, Ngài đã căn cứ nơi Kinh Đại Bát Niết BànKinh Quán Vô Lượng Thọ để hướng dẫn chỉ bày cho chúng ta về điều kiện vãng sanh này. Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 2 cho biết rằng: “Tất cả các pháp đều bất định; nên Nhứt Xiển Đề cũng bất định”. Điều này có nghĩa là: Dầu cho Nhứt Xiển Đề ngày hôm qua không tin nhân quả, tội phước; nhưng một ngày nào đó Nhứt Xiển Đề cũng sẽ tin và sự thay đổi để tin này, người ấy có khả năng để vãng sanh.

Kinh thứ 2 chứng minh cho việc này. Đó là Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã nói cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy nghe tại núi Linh Thứu. Kinh này ở phần quán thứ 16 của Hạ Phẩm Hạ Sanh cho biết rằng: Những kẻ phạm tội ngũ nghịch và Nhứt Xiển Đề cũng có thể sanh về Hạ Phẩm Hạ Sanh; nhưng phải có hai điều kiện. Đó là người phạm tội phải biết tàm quí, xấu hổ về những việc làm trong quá khứ của mình và điều kiện thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Đó là phải cần những Thiện Hữu Tri Thức đi kèm. Nếu không có những Thiện Hữu Tri Thức thì sẽ không có ai giúp cho chúng ta nghe câu Phật hiệu khi lâm chung. Vì lúc ấy Trung Ấm Thân không thể niệm Phật được.

Thánh Đạo Môn có nghĩa là cửa ngõ của bậc Thánh. Từ Thánh nhơn hướng xuống phàm phu qua 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà khi Ngài còn là một một vị Tỳ Kheo với Pháp Danh là Pháp Tạng. Ngài đã dành ra đến 5 kiếp để tư duy và phát ra 48 lời nguyện này và lời nguyện thứ 18 là một trong những lời nguyện quan trọng nhất để được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Kinh căn bản về niệm Phật tha lực này chính là Kinh Vô Lượng Thọ hay còn gọi là Kinh Đại Bản A Di Đà. Hay cũng còn gọi là Đại Kinh. Bậc Thánh vì lòng bi mẫn đối với chúng sanh; nên khi chúng sanh nhớ đến Ngài, niệm danh hiệu Ngài và đặt tin tưởng hoàn toàn vào bằng lực Bổn Nguyện của Ngài thì người ấy sẽ sanh về Nhứt Định Tụ hay còn gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn, sánh ngang hàng với Đức Di Lặc Bồ Tát, ở cương vị Nhứt Sanh Bổ Xứ, chờ đó để thành Phật và đi giáo hóa chúng sanh ở các cõi khác, do nguyện lực của mình. Nhưng điều khác biệt về tư tưởng cũng như cách nhìn của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn về việc niệm Phật tha lực này, lâu nay ít có vị Tổ Sư nào giải thích, ngoại trừ Ngài Thân Loan Thánh Nhơn khi nương theo lời nguyện thứ 18 để được vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Nơi quyển Thán Dị Sao của Ngài Thân Loan, Ngài cho rằng: Câu giả sử khi ta thành phật bây giờ không còn cần thiết nữa. Bởi vì Ngài Tỳ Kheo Pháp Tạng đã thành Phật A Di Đà từ trong Vô Lượng Kiếp rồi. Kế tiếp Ngài chủ trương rằng: Niệm Phật từ 1 đến 10 niệm không cần nhứt tâm. Bởi lẽ Đức Phật A Di Đà cũng giống như một người Mẹ thương Con mình, khi Con mình khóc đòi gì thì người Mẹ đã biết rồi, đâu cần phải hỏi lý do. Cho nên niệm Phật không cần nhiếp tâm; chỉ cần nương theo Bổn Nguyện cứu độ của Ngài là sẽ được đón về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, theo lối niệm Phật tha lực tin tưởng hoàn toàn nơi Bổn Nguyện cứu độ của Đức Phật A Di Đà. Trong lời nguyện thứ 18 còn cho rằng: ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch và Nhứt Xiển Đề; nhưng Ngài Thân Loan Thánh Nhơn cũng phủ nhận, theo niệm Phật tự lực như bên trên đã giải thích.

Với Ngài Thân Loan Thánh Nhơn cho rằng việc sanh về Cực Lạc có hai cách. Đó là vãng tướng vãng sanh và hoàn tướng vãng sanh. Vãng tướng có nghĩa là: sau khi đã sanh về đó rồi, ở luôn tại cảnh giới Tây Phương Cực Lạc tiếp tục tu hành để trở thành Đẳng Giác. Còn vị nào nếu muốn độ sanh thì phát nguyện trở về lại cảnh giới ngũ thú đồng cư này để tiếp tục hạnh nguyện của mình, cũng là một trong những hạnh nguyện của một vị Bồ Tát vậy.

Tư tưởng của Ngài Thân Loan trong “Giáo Hạnh Tín Chứng” là nêu rõ pháp môn tu tập niệm Phật tha lực theo Kinh Vô Lượng Thọ nương theo 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà. Phần này gọi là Giáo. Còn Hạnh chính là việc thực hành niệm Phật tha lực, nương theo Bổn Nguyện Lực của Đức Phật A Di Đà. Tín ở đây là lòng tin, chúng ta phải tha thiết tin rằng qua 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà là kim chỉ nam để được vãng sanh. Nếu không được vậy thì Ngài sẽ không ở ngôi Chánh Giác. Đây chỉ là kết quả của việc niệm Phật tha lực để được vào ngôi Chánh Định Tụ, sánh ngang hàng với Đức Di Lặc Từ Tôn.

 Ngoài ra tư tưởng của Ngài Thân Loan Thánh Nhơn còn chú tâm về các nguyện lực như: Chí tâm, tín nhạo và dục sanh nữa. Đây là những điều kiện gần giống như: Tín Nguyện Hạnh mà Phật Tử Việt Nam chúng ta lâu nay vẫn thường hành trì. Chí tâm có nghĩa là một lòng, chỉ với câu Phật hiệu 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” mà thôi, không giao động, không tán tâm, không xao lãng trong việc đi đứng, nằm, ngồi. Tín nhạo nghĩa là tin vui, tin theo lời nguyện của Ngài Di Đà qua những lời Đại Nguyện để được sanh về Tây Phương Cực Lạc và điều quan trọng là phải muốn được sanh; chứ Đức Phật A Di Đà không bắt buộc chúng ta phải sanh về nơi đó, sau khi mãn nghiệp ở cõi trần này. Mặc đầu cõi này qua Bổn Nguyện Lực: của Ngài là ai cũng đều được vãng sanh cả; nếu niệm đến danh hiệu của Ngài và tùy theo nghiệp lực mà chúng sanh đã gây ra trong kiếp trước để được sanh về nơi: Hạ, Trung hay Thượng phẩm.

Ngoài ra còn tư tưởng Nhị Hà Bạch Đạo cũng tương đối khác lạ với cách tu theo Pháp Môn Tịnh Độ của người Phật Tử Việt Nam chúng ta nữa. Cũng có nơi gọi là Nhị Hà Bạch Lộ. Đạo là con đường lớn hơn; lộ là con đường nhỏ. Tuy hai chữ Hán Việt này vẫn có ý nghĩa dùng để chỉ cho con đường. Nhị hà là hai con sông, bạch lộ là con đường màu trắng. Ngài Thiện Đạo (Trung Quốc) cũng như Ngài Pháp Nhiên, Thân Loan (Nhật Bản) định nghĩa rằng: khi thần thức vừa rời khỏi thân tiền ấm (biết sống, sợ chết) thì trung ấm thân ấy sẽ thấy hai con đường hiện ra trước mắt, trước khi chấp nhận để đi chọn nghiệp đầu thai thì sẽ thấy hiện ra trước linh thức hai dòng sông. Một dòng sông màu đen đầy gợi cảm theo dục vọng của bản năng. Nếu người mất, không có câu Phật hiệu đi kèm và không có những thiện hữu tri thức gần gũi hộ niệm, thì thần thức thân trung ấm ấy có thể dễ bị sa vào ba đường dữ của địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Còn dòng sông màu trắng, đứng ở bên kia và trên dòng sông ấy có Đức Từ Phụ A Di Đà đang vẫy gọi người quá vãng ấy. Nếu biết chọn nghiệp để đi đầu thai hay vãng sanh thì hãy nương theo tiếng gọi nơi dòng sông màu trắng ấy, chắc chắn sẽ được đến cảnh giới giải thoát.

Chúng ta biết rằng ba bộ kinh quan trọng đối với người tu theo pháp môn Tịnh Độ đó là: Kinh Vô Lượng Thọ (Đại Kinh); Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói cho Ngài A Nan nghe tại núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá, Ấn Độ. Núi ấy ngày nay vẫn còn. Bộ Kinh thứ hai. Đó là Kinh A Di Đà hay còn gọi là Tiểu phẩm A Di Đà, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói kinh này tại Kỳ Viên Tịnh Xá, thuộc nước Xá Vệ. Nền cũ, phòng ốc, Tăng Viện ngày nay vẫn còn đây, nằm về phía Bắc xứ Ấn Độ. Kinh này Đức Phật nói cho các vị Tỳ Kheo, Bồ Tát, A La Hán và Ngài Xá Lợi Phật trực tiếp nghe. Kinh thứ ba là Kinh Quán Vô Lượng Thọ (hay còn gọi là Quán Kinh); Đức Phật nói kinh này cho Hoàng Hậu Vy Đề Hy nghe tại núi Linh Thứu, thuộc Vương Xá Thành. Như vậy tất cả ba kinh này đều do chính kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra khi Ngài còn tại thế, không còn nghi ngờ gì nữa.

 Thiền Tông liên tục được truyền thừa từ Ngài Ca Diếp cho đến Tổ Bồ Đề Đạt Ma (thế kỷ thứ sáu sau Tây Lịch) có hệ thống rõ ràng; trong khi đó Tịnh Độ Tông chỉ truyền thừa rõ nét kể từ thời Ngài Long Thọ (Nagarjuna) ở thế kỷ thứ 3, 4 sau Tây lịch qua tác phẩm Thập Trụ Tỳ Bà Sa. Ở phẩm Dị Hành có mô tả về thế giới Cực Lạc và Đức Phật A Di Đà. Kế đó Ngài Thế Thân (Vasubandhu) đã soạn ra Tịnh Độ Luận (hay Vãng Sanh Luận) nương theo phẩm Dị Hành này và từ đó Tịnh Độ được truyền qua Trung Quốc qua các Ngài: Đàm Loan, Đạo Xước và Thiện Đạo. Ngài Đàm Loan viết Vãng Sanh Luận Chú, chú giải Vãng Sanh Luận của Ngài Thế Thân và tinh thần, tư tưởng này kéo dài mãi cho đến Ngài Đạo Xước và Ngài Thiện Đạo. Đến thế kỷ thứ 7 thì Tịnh Độ Tông được truyền qua Nhật Bản với Ngài Nguyên Tín, Pháp Nhiên và Thân Loan (Nguyên Không) với tư tưởng đặc thù hơn, như bên trên có giải thích về niệm Phật tự lực và niệm Phật tha lực theo Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà.

 Trở về lại thời Nguyên Thủy khi Ngài Huyền Trang ra đi khỏi Trung Quốc dưới triều vua Đường Thái Tông nhằm năm Trinh Quán thứ 2 (629); đi sang Ấn Độ hai năm; học Pháp Tướng Tông hay còn gọi là Duy Thức Tông 12 năm với Ngài Giới Hiền tại Đại Học Nalanda, Ấn Độ, sau đó Ngài Huyền Trang trở về lại Trung Quốc hai năm nữa. Tổng cộng 16 năm đi về và học đạo tại Ấn Độ. Ngài mang theo 576 kinh văn toàn là chữ Phạn (không có ngoại ngữ nào khác) đúng vào năm 645. Sau đó nhà vua dâng Ngọc Hoa Cung cho Ngài chủ trì phiên dịch những kinh văn này từ chữ Phạn sang Hán Văn trong vòng 19 năm. Cho đến năm 664 thì Ngài viên tịch, và kinh văn sau cùng được dịch là kinh thứ 22 trong 2926 Kinh Văn của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh gồm 100 tập. Đó chính là Kinh Đại Bát Nhã dịch trong vòng ba năm từ năm 661-663.

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm người Việt Nam đã dịch Kinh Đại Bát Nhã này sang Việt ngữ trong vòng 12 năm thành 24 tập; mỗi tập dày độ 700-800 trang. Đây là công trình phiên dịch của các vị Đại Sư người Việt Nam chúng ta kế tục tinh thần phiên dịch Đại Tạng Kinh ra Việt Ngữ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chủ trương từ năm 1973 tại Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyo) tổng cộng có 100 tập. Từ tập 1 đến tập 32 dịch từ chữ Phạn sang Hán Văn gồm có: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và Bản Sanh hay Bản Sự. Từ tập 32 đến giữa tập 54 là những chú giải về Kinh, Luật, Luận của chư vị Tổ Sư. Từ tập 54 đến tập thứ 85 nói và viết về Phật Giáo Nhật Bản và Phật Giáo Trung Hoa. Từ tập 85 đến tập thứ 100 là những kiểu kiến trúc, thơ họa, mỹ thuật Phật Giáo. Nếu 100 tập này được dịch hết ra tiếng Việt sẽ trở thành 400 tập; mỗi tập dày trên dưới 1.000 trang. Đây chính là Đại Tạng Kinh của Phật Giáo.

Nhìn chung dầu là Tịnh Độ Môn hay Thánh Đạo Môn, tất cả đều được cứu vớt theo Bổn Nguyện Lực của Đức Phật A Di Đà. Dầu ngôn ngữ, sự truyền thừa có khác nhau; nhưng nội dung vẫn là một. Mục đích duy nhất là vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc sau khi lâm chung. Xin nguyện cầu cho tất cả những ai có tấm lòng tin sâu, nguyện thiết thì xin chú tâm vào câu Phật hiệu: “Nam Mô A Di Đà Phật” để được sanh vào thế giới An Lạc của Đức Từ Phụ A Di Đà.

Nguyện cầu cho tất cả chúng ta những ai đã và sẽ có nhân duyên với Pháp Môn Tịnh Độ hãy ngày đêm thường hay trì tụng đến Hồng Danh sáu chữ này. Kết quả sẽ được như chúng ta mong đợi và Đức Từ Phụ A Di Đà đang đứng ở bên kia bờ sanh tử, đang chờ đợi chúng ta và sẽ đưa người qua khỏi bể khổ sông mê.

Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát.⧫

Viết xong vào lúc 10:30 sáng ngày 15.9.2025 tại Tu Viện Viên Đức vùng Ravensburg thuộc miền nam nước Đức.

Đại Phật Tượng (Daibutsu) là tượng Đức Phật A Di Đà tại Kamakuro tỉnh Kanto, được đúc bằng đồng vào thế kỷ thứ 13, đặ trong khuôn viên của một ngôi chùa thuộc Tịnh Độ Chơn Tông. Ban đầu tượng nằm bên trong chánh điện, nhưng vì chánh điện thường bị tàn phá bởi bão tố và động đất, nên đến thế kỷ thứ 15 Đại Tượng được để ngoài trời từ đó đến nay. Với chiếu cao 11.3 mét, nặng 121 tấn, Daibutsu là tượng cao hàng thứ nhì tại Nhật Bản. Hình chụp năm 2017. (Suicasmo/ Wikimedia Commons)

Discover more from Tinh Tấn Magazine

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *