Ngài Thân Loan, vị Phật tử phá chấp đầu tiên/ Mark Unno

*Đọc 16 phút*

Bài MARK UNNO
Đồng Phúc lược dịch
(Trích báo Tricyle số Mùa Đông 2017)

Trong cuốn ‘Zen Mind, Beginner’s Mind’ (Tâm Thiền, Tâm Ban Sơ), Đại Sư Shunryu Suzuki từng nói với các tân Phật tử ở Bắc Mỹ rằng trên con đường tu tập thì họ sẽ “không là cư sĩ mà cũng không là tăng sĩ,” tu hành như ở trong chùa nhưng không có sự hỗ trợ của một đại chúng hay của các đại thí chủ. Trong khi tu tập, họ vẫn phải đối phó trước những nhu cầu cấp thiết của một cuộc sống tại gia: duy trì việc làm, giữ tình thân hữu, làm tròn bổn phận với gia đình, và những thứ như thế. Mô hình “dựa vào bản thân” này là điều mà hầu hết các cộng đồng tu hành đã và đang thực hiện từ trước đến nay. Điều ít được biết đến là mô hình “không là cư sĩ mà cũng không là tăng sĩ” của Đại Sư Suzuki đã xuất phát từ một bậc thầy khác, ngài Thân Loan (1173–1262), một trong những nhân vật danh tiếng nhất của Phật Giáo Nhật Bản.

Ngài Thân Loan (Shinran) là người sáng lập Tịnh Độ Chân Tông, một nhánh ở Nhật Bản xuất phát từ nguồn Tịnh Độ Tông bên Ấn Độ và trở thành một trong những tông phái Phật Giáo lớn nhất ở Đông Á. Tịnh Độ Chân Tông xuất hiện lần đầu ở Tây Phương vào cuối thế kỷ 19, và ông DT Suzuki –một vị thầy, một tác giả, dịch giả nổi tiếng với các tác phẩm về Thiền Tông– đã viết khá nhiều về Tịnh Độ Tông trong thập niên 1960; nhưng sự thực hành gồm trì tụng danh hiệu của Đức Phật A Di Đà chỉ mới được phổ biến rộng rãi ở Bắc Mỹ trong số các Phật tử Mỹ cải đạo.

Trước thời của ngài Thân Loan, phần lớn Phật Giáo ở Á Châu đã tuân theo một hệ thống phân cấp rõ ràng mà theo đó tăng sĩ được đặt bên trên thường dân. Ngài Thân Loan đã phá vỡ truyền thống này qua hai cách riêng biệt: Ngài là tăng sĩ Nhật Bản được giáo hội thụ phong đầu tiên công khai kết hôn, và là người đầu tiên hành đạo như một nhà sư nhưng đồng thời sống như một người có gia đình, đắp y để phục vụ đại chúng nhưng hoàn toàn từ chối sống trong chùa.

Khi nhìn lại đời mình, ngài tuyên bố, “Tôi không là tăng sĩ mà cũng không là cư sĩ.” Những đổi mới về lối sống và chức vị tôn giáo của ngài đã mở đường cho chủ nghĩa bình đẳng cấp tiến của Phật Giáo Tịnh Độ, không xem cuộc sống tại gia là trở ngại cho việc đạt được mục tiêu tâm linh và mở đường cho nữ giới được thụ phong sớm hơn so với các tông phái khác. Đó là con đường tạo ra những khả năng cho sự phát triển liên tục của Phật Giáo ở Tây Phương.

Như các đại sư cùng thời là thiền sư Đạo Nguyên (Dogen) (1200–1253) thuộc phái Tào Động và Nhật Liên (Nichiren) (1222–1282) thuộc phái Tân Liên Hoa Tông, ngài Thân Loan bắt đầu sự nghiệp tu hành trên Núi Hiei (Bỉ Duệ Sơn), trụ sở của phái Thiên Thai đang chiếm ưu thế thời bấy giờ. Cả ba đại sư đều cho rằng phái Thiên Thai đã sa đọa với quá nhiều tăng sĩ ham mê tài danh, che giấu vợ con và bạn gái, đồng thời cấm phụ nữ vào các thánh địa trên Núi Hiei.

Năm 1203, ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân (Honen) (1133–1212), một nhà sư vừa mới từ bỏ phái Thiên Thai, đã giảng dạy một con đường mới để thực hành pháp môn Tịnh Độ mà theo đó người tại gia hay người xuất gia đều bình đẳng trên con đường tâm linh. Ai cũng có thể thực hành phương pháp niệm Phật, cho dù họ là một bình dân trong xã hội, người đã có gia đình, hay một tu sĩ.

Pháp môn này chỉ đòi hỏi sự thực hành là niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, tức niệm “Nam Mô A Di Đà Phật.” Ngài Pháp Nhiên dạy rằng người niệm Phật như thế được ôm vào lòng từ bi vô biên. Thoạt nghe thì đây là điều khó tin cho ngài Thân Loan, người mà khi đó đã xuất gia được hai thập niên theo giáo phái Thiên Thai. Ngài thắc mắc, để đạt giải thoát, người ta phải từ bỏ thế giới vật chất này, phải buông bỏ chấp trước, và hoàn thành một đường tu hành khó khăn, đúng không? Thân Loan cũng biết rằng ngài Pháp Nhiên trước khi từ bỏ cách tu theo phái Thiên Thai thì cũng đã là một trong những nhà sư được kính trọng nhất thời bấy giờ, do đó Thân Loan cảm thấy pháp môn mới này có thể có một giá trị nào đó.

Vào năm 29 tuổi, ngài Thân Loan đã dự một khóa tu nhập thất chuyên sâu tại Rokkakudo (Lục Giác Đường), một ngôi chùa ở Kyoto (Tây Kinh), với hy vọng nhận được một tín hiệu soi đường dẫn lối. Vào rạng sáng ngày thứ 95 trong khóa tu nhập thất 100 ngày, Thân Loan nằm mộng thấy Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra trong giấc mộng.

[Đoạn này xin trích dẫn phần dịch của Hòa Thượng Thích Như Điển – Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức – từ cuốn ‘Tịnh Độ Tông Nhật Bản’ nguyên tác Kakehashi Jitsuen.

Ở nơi Lục Giác Đường, Thân Loan nguyện quyết sống chết tu hành để chuyển hóa. Đến đêm thứ 95, Ngài nằm mộng thấy Thánh Đức Thái Tử cho là Chân Phật. Điều nầy đã được đệ tử lớn của Thân Loan là Cao Điền ghi lại trong “Thân Loan Mộng Lý.” Do vậy mà cho rằng Bổn Tôn của Lục Giác Đường được ghi lại qua sự giác ngộ về Đức Cứu Thế Quan Thế Âm Bồ Tát.

Sau đây là những câu kệ bằng thơ có thể rõ hơn về điều đó. Lại nữa, lúc 80 tuổi Thân Loan chính là Chân Phật, mà lúc 50 tuổi không được như thế.

Nếu đời trước, hành giả phạm vào người nữ
Ta, thân nầy biến thành Ngọc Nữ bị phạm
Cả một đời có thể trang nghiêm
Lâm chung sẽ được tiếp dẫn sanh Cực Lạc.

(Ai đó thệ nguyện một đời chẳng phạm giới nhưng phá giới kết hôn, ta (Quan Âm) sẽ hiện ra thân Ngọc Nữ trở thành vợ của người ấy. Ta sẽ làm cho cả đời người kia trang nghiêm Phật Đạo và khi lâm chung được tiếp dẫn về Cực Lạc).

Phạm tội phá giới, lập gia đình, sinh sống như người tại gia hoặc là một vị Tăng phá giới vẫn có thể vãng sanh Tịnh Độ ý nói rằng có con đường thành Phật như thế. Đây chính là Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà đối với những ai có niềm tin vào pháp môn niệm Phật. Dù người tại gia hay xuất gia; dù trì giới hay phá giới Ngài đều cứu độ mà không phân biệt. Đó vừa là lời dạy của Pháp Nhiên vừa là minh chứng rõ ràng giấc mộng báo trước vậy.

[Hết trích dẫn]

Tỉnh dậy từ giấc mơ với lời tiên tri đầy chấn động này, Thân Loan đã tin vào chân lý của pháp môn niệm Phật do ngài Pháp Nhiên giảng dạy, trở thành đệ tử của ngài. Tương tự như các mô hình tu hành độc nhất khác như tọa thiền của Dogen và tụng Kinh Pháp Hoa của Nichiren, pháp môn niệm Phật của Thân Loan tập trung vào một phương pháp thực tiễn và dễ thực hành.

Tuy nhiên, cả hai Pháp Nhiên và Thân Loan đều không được chính quyền đương thời cho phép truyền dạy pháp môn Tịnh Độ mới này. Cuối cùng, Pháp Nhiên, Thân Loan và những người lãnh đạo khác của phong trào mới nổi lên đã bị truy tố như những tăng sĩ ngoài vòng pháp luật, bị thu hồi tăng tịch, bị gọi tên thường dân, và bị đày về vùng nông thôn. Hai [bốn, theo tài liệu khác] trong số những tu sĩ này thậm chí còn bị xử tử, với cáo buộc phạm giới với các cung nữ trong triều đình. Cuối cùng, khi mọi chuyện lắng xuống, Pháp Nhiên, Thân Loan và những người khác được phép trở về. Khi ấy thì ngài Pháp Nhiên đã già yếu, lâm trọng bệnh. Ngài qua đời trong vòng một năm.

Trong khi đó, Thân Loan nhận thấy rằng những nông dân, ngư phủ, và những người bị xã hội ruồng bỏ mà ngài gặp ở nông thôn lại chân thành và thực tế hơn: họ mở lòng với pháp môn niệm Phật, sẵn sàng đón nhận lòng từ bi vô biên của Phật A Di Đà một cách dễ dàng hơn so với nhiều tăng sĩ uyên bác nhưng đạo đức giả thời bấy giờ, mãi bận tâm với tranh giành chức danh và quyền lực. Ngài quyết định không trở lại Tây Kinh.

Tượng ngài Shinran tại chùa Honganji Nagoya Betsuin ở Nagoya, Nhật. (Lombroso/ Wikimedia Commons)

Trong 30 năm sau đó, Thân Loan sống và hành đạo giữa những nông dân, và từ đó khước từ một cuộc sống trong chùa. Ông kết hôn với một phụ nữ tên là Eshinni (Ni Huệ Tín-HT Như Điển), và họ trở thành đối tác trong việc truyền đạo và sống đời thường, cùng nhau nuôi dạy bảy người con. Ni Huệ Tín thậm chí cũng có một giấc mộng tương tự như giấc mộng của Thân Loan: bà thấy Thân Loan là hiện thân của Quán Âm Bồ Tát và chính bà cũng là một Quán Âm Bồ Tát tái sinh.

Tư tưởng của Thân Loan đã tiếp tục ảnh hưởng đến Phật Giáo ở Nhật Bản và nhiều nơi khác; những khái niệm như đam mê mù quáng, chúng sanh si mê, và lòng từ bi vô hạn đã trở thành một phần trong ngữ vựng tiếng Anh của Tịnh Độ Tông ở Tây Phương. Theo pháp môn này, người bị giam hãm trong nhà tù tâm lý xuất phát từ “đam mê mù quáng” của chính họ.

Về khái niệm thì đam mê và ham muốn tự thân chúng không mang tính xấu. Chỉ khi chúng ta bị ám ảnh bởi những ý tưởng về bản thân mình là ai hoặc nên là ai thì chúng ta mới trở nên mù quáng trước thực tế trước mắt. Cũng như tình yêu phải được phép biểu lộ và không thể bị ép buộc, sự trải nghiệm rộng lớn hơn của chúng ta về sự sống và cái chết chỉ có thể thực sự bộc lộ trong sự tiếp xúc tự do giữa chúng ta và thế giới, khi chúng ta không bị che mờ bởi sự ham muốn ép buộc mọi thứ vào một khuôn mẫu đã được hình thành trước trong tâm trí của chúng ta.

Một trong những chìa khóa trong tư tưởng của Thân Loan nằm ở sự việc rằng ông thấy tất cả chúng sanh đều bị ràng buộc vào những đam mê mù quáng, kể cả những tăng ni đã thọ giới. Không ai hoàn toàn thoát khỏi sự u mê, và cũng không ai không có tiềm năng để thoát khỏi sự ràng buộc của chúng. Sự va chạm với thực tại, nhận ra tánh không, được mô tả trong Tịnh Độ Chân Tông là được ôm vào lòng từ bi vô biên. Mặc dù tánh không vượt ra ngoài mọi sự phân biệt, là vô tướng và vô thể, nhưng sự trải nghiệm thoát nỗi khổ đau của sự đam mê mù quáng và hòa nhập vào tánh không bao la như đại dương là một sự nhận thức tích cực, điều mà Thân Loan gọi là lối vào “đại dương vô lượng quang” của lòng đại bi. Từ bi có thể dịch là “cảm nhận cùng” dòng chảy của thực tại, lòng từ vô biên vượt ra ngoài sự phân loại, không thể diễn tả được, không thể quan niệm được.

Người đầy lòng tham lam mù quáng được gọi là “kẻ phàm phu,” và hiện thân của lòng từ bi vô biên chính là Đức Phật A Di Đà. Đam mê mù quáng và lòng từ vô biên, kẻ phàm phu và Đức Phật A Di Đà: Đây là những thuật ngữ chỉ sự giác ngộ trong đời sống tu hành hàng ngày của tín đồ Chân Tông của Thân Loan. Hơn nữa, những cặp đối cực này được thể hiện trong sự thực hành cốt lõi của Tịnh Độ Chân Tông, đó là việc niệm hoặc trì danh hiệu Đức Phật A Di Đà dưới dạng câu “Nam Mô A Di Đà Phật,” nghĩa là “Con phó thác bản thân cho sự giác ngộ của ánh sáng vô biên.”

Niệm Phật bắt nguồn từ tiếng Phạn “Namo Amitabha Buddha.” Namo giống như “namas” trong lời chào của người Nam Á “namaste,” “con [tôi] cúi đầu trước ngài.” Trong sự thực hành Tịnh Độ, “Namo” hay “Namu,” “con cúi đầu,” là biểu hiện của sự khiêm nhường sâu sắc nhất, xuất phát tự nhiên từ nhận thức về bản thân như một chúng sanh khờ dại chứa đầy những đam mê mù quáng. Tên của Đức Phật A Di Đà bắt nguồn từ tiếng Phạn Amitabha Buddha, có nghĩa là “Đức Phật Vô Lượng Quang” (hoặc Amitayus Buddha, “Đức Phật Vô Lượng Thọ”).

Tuy nhiên, vì lòng từ bi vô biên luôn luôn khai mở và không bao giờ tĩnh tại, nên cách diễn đạt chính xác hơn của “Namo Amitabha Buddha” là “sự thức tỉnh của vô lượng quang.” Cũng giống như chúng ta thường trải nghiệm bóng tối khi gặp rắc rối và cảm giác sáng suốt khi thoát khỏi những lo lắng, việc nhận ra tánh không/nhất thể đến với chúng ta như một cảm giác sống động về ánh sáng vô hạn: Chúng ta trở nên nhận thức rõ hơn về sự hiện diện của thiên nhiên xung quanh mình, chẳng hạn như những sắc thái tinh tế của những bông hoa dại nở rộ bên lề đường.

Thế nhưng chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn thoát khỏi những đam mê mù quáng, khi chúng ta còn sống với cái tâm và cái thân hữu hạn gọi là “cái tôi.” Trong khoảnh khắc được giải thoát khỏi nhà tù-bản ngã, chúng ta có thể cảm thấy một động lực sâu sắc để không bao giờ than phiền nữa, không bao giờ phán xét người khác nữa. Vậy mà ta vẫn than phiền, vẫn phán xét. Tuy nhiên, một khi chúng ta đã thức tỉnh trước sự vận hành của lòng từ bi vô biên của Phật A Di Đà, mỗi khoảnh khắc vô minh và đam mê mù quáng lại trở thành một cơ hội mới để ta thấu hiểu và học hỏi, và theo thời gian, những dính mắc của ta bắt đầu được nới lỏng và dễ buông bỏ hơn một chút. Trong Tịnh Độ Chân Tông, chúng ta rất coi trọng đam mê mù quáng vì đó chính là nguồn gốc của trí tuệ và lòng từ bi của ta.

Trong nhịp sống hàng ngày của người niệm Phật, niệm “Nam Mô A Di Đà Phật,” một khoảnh khắc nhỏ nhất của sự suy ngẫm và trân trọng cũng mang ý nghĩa đáng kể như sự chứng ngộ vĩ đại. Cho dù chúng ta có chủ động hay không trong khoảnh khắc niệm “Nam Mô A Di Đà Phật,” cuộc sống của chúng ta sẽ được chuyển hóa theo thời gian bằng cách đắm mình trong giáo pháp, qua việc lắng nghe giáo lý cũng như trì tụng, cúi đầu đảnh lễ, và các cách thực hành khác bằng thân thể. Vì vậy, khi nhìn thấy một cây cảnh bắt đầu héo úa, tôi nhớ lại sự mê muội của mình là quên tưới nước cho một sinh vật mang lại cho tôi vẻ đẹp, không khí trong lành, và mầm sống mới. Nghe tiếng mèo kêu, tôi quay lại nhìn đồng hồ, thấy rằng mình đã bận tâm đến đỗi quên cho mèo ăn.

Dù là cư sĩ hay xuất gia, nam hay nữ, chỉ khi nhận ra lỗi lầm của mình, chúng ta mới học hỏi và trưởng thành. Những đam mê mù quáng là phân bón cho cánh đồng phát triển tâm linh của chúng ta, vì đam mê và lòng từ bi vô biên song hành với nhau: càng nhận thức được sự si mê của mình, thì sự soi sáng của lòng từ bi vô biên lại càng lớn; càng đi sâu vào đại dương của lòng từ bi vô biên, chúng ta càng nhận ra mình đã chìm đắm trong sự mê muội như thế nào. Đó là một quá trình mà chúng ta được soi sáng và thấm nhuần trong đại dương của lòng từ bi vĩ đại của Phật A Di Đà.

Khi trì tụng danh hiệu Phật A Di Đà, tâm chân thật, chân thành, và thành tâm của A Di Đà trở thành một với tâm của người niệm thông qua sự vận hành của lòng từ bi vô biên. Ngài Thân Loan tự coi mình là kẻ dốt nhất trong tất cả người dốt và tự gọi mình là “Thân Loan, tên ngốc hói đầu.” Chiếc áo choàng của ngài không là dấu hiệu của sự chứng ngộ tâm linh, mà phản ánh một kẻ si mê được nhận món quà của lòng từ vô biên.

Đây là một thông điệp chung mà ai cũng có thể đồng cảm. Ngay cả các tu sĩ thuộc hàng sư phụ cũng chỉ là những con người, có những khuyết điểm và sự hạn chế, và cũng có thể mắc phải sự sai lầm và yếu đuối của con người. Thế nên trong số những người tu theo Tịnh Độ Chân Tông của Thân Loan có cả những nhà sư uyên bác lẫn những người nông dân mù chữ, và chắc chắn người ta có thể nghĩ rằng một bậc thầy phải tiến xa trên đường đạo so với một cư sĩ.

Tuy nhiên, Thân Loan có cái nhìn hơi khác một chút. Trong khi thông thường người ta xem tăng giới tiến xa trên con đường này, Thân Loan lại thấy những người theo ngài, trong số họ là những nông dân mù chữ, lại ngang hàng hoặc thậm chí vượt trội hơn các nhà sư đương thời. Trong đoạn văn có lẽ là nổi tiếng nhất trích từ Tannisho (Thán Dị Sao-HT Như Điển), một bản ghi chép những lời của Thân Loan do đệ tử Yuien (Duy Viên-HT Như Điển) của ngài ghi lại, Thân Loan được trích dẫn như sau:

“Ngay cả một người tốt cũng đạt được sự tái sinh ở Cõi Tịnh Độ [thực chứng cõi Không], huống chi là một người xấu [bị gánh nặng nghiệp chướng của những đam mê mù quáng].”

Thoạt nghe thì có vẻ không hợp lý vì người đời thường nói: “Kẻ ác còn được vãng sinh, huống chi người thiện.” Nhưng câu thông thường thì lại trái với ý nguyện của tha lực. Lý do là người tự lực, có ý thức làm điều thiện, không có ý niệm phó thác hoàn toàn bản thân cho tha lực, nên họ không phải là trọng tâm của lòng từ bi vô biên của Phật A Di Đà. Nhưng khi hành giả từ bỏ tự lực và phó thác cho tha lực, người đó sẽ đạt được sự vãng sinh trong cõi Tịnh Độ Chân Thật.

Câu nói này mang tầm quan trọng rộng lớn. Nghiệp duyên khiến con người muốn đồng nhất với cái “tốt” và tránh cái “xấu,” hay tránh nghiệp ác. Tuy nhiên, việc luôn tìm cách thể hiện mình là “tốt” chính là bị mắc kẹt trong sự vận hành của bản ngã, hay “cái tôi” mà Thân Loan gọi là “tự lực,” ngăn cản người ta mở lòng đón nhận sự khai mở tự nhiên của Phật tánh, của đại bi tâm, cái mà Thân Loan gọi là “tha lực” bởi vì nó “không là bản ngã.”

Câu nói của Thân Loan “huống chi một người xấu” cũng hàm ý chỉ trích với những người đương thời, những nhà sư uyên bác tự cho mình là “cao tăng” nhưng lại phô trương địa vị xã hội và đặc quyền của mình, trái ngược với nông dân và thường dân, những người không có tham vọng như vậy và hòa hợp hơn với nhịp điệu của thiên nhiên, những người có rất ít của cải vật chất và phải sống trong nhận thức liên tục về vô thường.

Điểm tinh tế ở đây là Phật Giáo trước hết là sự thực hành bằng thân thể, trong đó người ta niệm Phật ra tiếng. Từ đó tấm lòng mở ra và tâm trí có thể theo sau, nhưng chỉ khi người ta có đủ khiêm tốn, không mong cầu sở hữu vật chất và mong muốn kiểm soát thế giới thông qua trí tuệ.

Thân Loan đã nhấn mạnh hai khoảnh khắc quan trọng trong pháp môn niệm Phật: tín tâm (shinjin), sự thành tâm phó thác, là khoảnh khắc nhận ra lòng từ bi vô biên; và vãng sanh Tây Phương Cực Lạc (ojo) lúc lâm chung. Hai khoảnh khắc này tương đồng với cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lịch sử: Ngài đạt được niết bàn ở tuổi 35 và nhập niết bàn ở tuổi 80. Hai khoảnh khắc này cũng được gọi là “hữu dư Niết Bàn” và “vô dư Niết Bàn,” trong đó “dư” là tàn dư của nghiệp trong cuộc đời hữu hạn này.

Nhận ra sự phó thác chân chính là được soi sáng, ôm vào và hòa tan trong ánh sáng vĩ đại của lòng từ bi vô biên của Phật A Di Đà, nhưng chỉ khi mạng chung, vãng sanh Tịnh Độ vượt khỏi quan niệm, thì người ta mới hoàn toàn thoát khỏi những ràng buộc của sanh tử. Ngay cả khi đó, lời hứa của người tu Chân Tông là dừng lại ngay trước khi được giải thoát và trở lại thế giới này để hoàn tất cuộc hành trình của bồ tát và phục vụ chúng sanh.

Trong khi một số người có thể trải nghiệm khoảnh khắc giác ngộ vĩ đại, tương tự như sự chứng ngộ Niết Bàn của Đức Phật, những người khác có thể trải nghiệm một chuỗi những khoảnh khắc nhỏ hơn nhưng không kém phần quan trọng. Ở đây có một điểm tương đồng với quán công án của Thiền Lâm Tế, gồm một chuỗi những vấn đề không tuần tự mà người thực hành phải vượt qua. Một số người trải nghiệm một bước đột phá vĩ đại, thay đổi cuộc đời, tiếp theo là những chứng ngộ nhỏ hơn giúp họ trưởng thành; những người khác trải nghiệm một chuỗi những chứng ngộ nhỏ, đánh dấu một quá trình giác ngộ mỗi lúc một sâu sắc hơn. Dù vĩ đại hay vi tế, lớn hay nhỏ, mỗi khoảnh khắc đều vô song, như một biểu hiện của sự thức tỉnh của ánh sáng vô tận.

Đây là vũ điệu của chúng ta với thực tại và với chính mình, nhịp điệu và bài ca của “Nam Mô,” sự si mê của chúng ta, và “A Di Đà Phật,” suối nguồn của lòng từ bi vô biên phát sinh từ thực tại sâu sắc nhất, chân thực nhất của chính chúng ta. Cuối cùng, ngay cả niệm Phật cũng không phát sinh từ chính chúng ta, từ bản ngã của chúng ta, mà được trải nghiệm như một lời kêu gọi từ mức độ sâu thẳm nhất của thực tại, của bản thể chúng ta, trong đó dòng chảy của tính không hay nhất thể được nhận ra trong mỗi biểu hiện của hình dạng và hình tướng.

Từ đó ngài Thân Loan tuyên bố, “Sự giao phó chân chánh là Phật tánh.” Sự vận hành của lòng từ bi vô biên cũng được gọi là Bổn Nguyện của Phật A Di Đà, lời thệ nguyện đưa tất cả chúng sanh đến sự nhận thức về nhất thể, tự phát sinh từ sâu thẳm của sự hiện hữu. Niệm Phật thể hiện việc chúng ta tiếp nhận lời thệ nguyện sâu sắc này để giải thoát và nhận ra sự nhất thể với tất cả chúng sanh, vì tất cả chúng sanh là bản ngã. Đó là sự bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất, rằng cuộc sống của chúng ta được duy trì trong mạng lưới duyên sinh. Chúng ta được nuôi dưỡng bởi những người giúp chúng ta sinh sống, có thức ăn, chỗ ở, gia đình, và tình bạn, và ở một mức độ thâm sâu hơn, tự nhiên chúng ta cảm thấy muốn bày tỏ sự trân quý đối với sự chia sẻ nỗi đau khổ chung trong sinh tử, sự soi sáng lẫn nhau trong vô minh và từ bi, sự đồng nhất trên con đường đưa chúng ta vượt qua sinh tử. Đó chính là Nam Mô A Di Đà Phật.

Lời tuyên bố “Tôi không là tăng sĩ mà cũng không là cư sĩ” của Thân Loan nằm ở cuối tác phẩm chính của ngài, Kyogyoshinsho (Hiển Tịnh Độ Chơn Thật Giáo Hạnh Chứng Văn Loại-HT Như Điển). Đây là một câu nói lịch sử, mô tả hoàn cảnh của sư phụ ngài và chính ngài trong tình trạng lơ lửng: bị lưu đày, ép buộc phải hoàn tục, nhưng vẫn truyền giáo ở nông thôn. Đây cũng là một câu nói có tính triết học phù hợp với chân lý hai mặt, với tánh không là nền tảng của sự chứng ngộ tâm linh vượt lên trên mọi phạm trù, dù là tại gia hay xuất gia. Cuối cùng, Thân Loan tự xem mình là một kẻ u mê: “Tôi không đủ tư cách để được coi là một nhà sư giỏi hay một cư sĩ giỏi.”

Chủ nghĩa bình đẳng của Thân Loan bắt nguồn từ sự nhận thức uyên thâm về tính nhất thể với vạn vật. Chủ nghĩa này phóng khoáng trong tính bao dung, vượt ra ngoài ngôn từ và trong chiều sâu của sự tự nhận thức. Những lời chỉ trích nào nhắm vào những người cùng thời với ngài trong giới tăng sĩ, cũng như sự thương yêu của ngài dành cho giới nông dân và ngư dân, đều xuất phát từ một quan điểm bao dung là Thân Loan tự coi mình là kẻ ngu si nhất. Trong thời kỳ đầy biến động trong xã hội và chính trị, ngài đã bày tỏ sự chỉ trích và cổ võ từ vị thế của lòng đại bi. Có lẽ có một giá trị hữu ích trong điều đó để chúng ta suy ngẫm thời nay.

Bích chương của chương trình kỷ niệm 850 năm ngài Thân Loan, vị tổ Tịnh Độ Chân Tông Nhật Bản. (Kyoto National Museum)

Discover more from Tinh Tấn Magazine

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *