Bài TRẦN HỒ THÚY HẰNG
1.
Chị là một trong vài người bạn cùng có nhiều kỷ niệm, từ thời học cấp II, cấp III. Rồi khi lớn lên, rời xa mái trường tuổi nhỏ, cuộc đời đã xô đẩy mỗi một vào những nẻo xa cách nhau. Nhiều năm không gặp, nhưng trong tâm tưởng tôi vẫn còn nguyên vẹn hình ảnh một cô học trò vóc người gọn nhẹ, cử chỉ nhanh nhẹn và nụ cười kín đáo mà tươi vui hiền hòa. Không liên lạc với chị, tôi chỉ được nghe vài người quen cho biết, sau khi ra trường, chị lấy chồng ở một tỉnh miền Trung, có được một con trai, cuộc sống cũng tạm ổn định nhưng rồi không hiểu vì sao lại đi đến chỗ đứt gánh giữa đường!
Mãi đến độ tuổi gần năm mươi, những người bạn cũ của cái lớp học ngày xưa ấy mới dần dần gặp lại nhau, trong vài cuộc họp mặt những “cựu học sinh” của cái thời trong sáng vô tư ấy, cái thời có lẽ là tốt đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Tình cờ mà chị lại đến cư ngụ trong cùng một địa phương nơi tôi đang ở, sau khi “giã từ” cái giai đoạn sống vui-ít-buồn-nhiều, kể từ khi lập gia đình riêng.
Thường có dịp gặp gỡ nên tôi và chị trở thành thân thiết hơn xưa. Bên cạnh tình cảm tươi sáng của thời trẻ tuổi, chúng tôi còn có thêm cái tình của những người đã đi qua ít nhiều trải nghiệm đắng chát của bao nhiêu dâu bể trong cuộc phù thế này. Bạn hữu tình thân, thì quí nhau và học lẫn nhau. Bạn, là tấm gương mà mình nên soi vào đó để hiểu thêm về bản thân và về người khác.
Với chị, tôi dần dần khắc phục được thói biếng nhác trong việc luyện thân: mỗi buổi sáng, chị đều đặn dành nửa giờ cho các động tác thể dục. Chị nói, đó là thói quen mà chị bị bắt buộc phải làm trong một thời gian dài mà công việc chuyên môn hằng ngày đòi hỏi. Hồi đó, nhất là trong giai đoạn đầu, vừa do không thể tránh né vừa bị thói quen lười tập thể dục của không ít người vốn sinh ra và lớn lên tại các đô thị nên phải khó khăn lắm chị mới thực hiện được. Riết rồi thành quen; rồi mới dần dần nhận ra được sự lợi ích của việc luyện thân.
Chị nhắc lại, hồi đi học, các thầy cô dạy cái câu thật đơn giản “Một tâm hồn minh mẫn trong một thân thể tráng kiện” mà bọn mình đâu có hiểu thấu đáo! Rồi chị cười nhẹ “khái quát”: Vậy đó, có những cái ngỡ là họa, đôi khi lại trở thành cái phúc! Trong quan niệm về cách ứng xử với người khác, chị chọn cách sống tôn trọng mọi người, vì “mỗi người một tính”, không nên chê bai trách móc ai cả; bởi vì, chính bản thân mình cũng còn biết bao khiếm khuyết…
Có khá nhiều chuyện có thể học hỏi từ người bạn gái này, nhưng tôi nhớ nhất là chuyện… con gián của chị. Có lẽ hiếm có người ưa thích loài côn trùng này, nhất là đối với phụ nữ, trong công việc bếp núc thường ngày. Và “tiêu diệt” chúng cũng là chuyện khỏi phải… ái ngại gì. Chuyện là, có lần khi đang ở trong phòng vệ sinh, chị thấy một con gián bò ra, hai cái râu ngoe ngoe, thật là… dễ ghét. Hai cái cánh còn giương lên múa may nữa chứ. Đưa chân ra, chị định dẫm mạnh xuống con gián. Bỗng một con gián khác xuất hiện, ôm lấy con thứ nhất. Hóa ra, con gián thứ nhất… gọi tình và con gián thứ hai “trả lời”. Tự nhiên, chị thấy rúng động: Nó cũng là một sinh vật, tại sao mình lại giết hại nó; nhất là giữa khi nó đang thể hiện cái bản năng tự nhiên?
Nhớ lại và kể cho tôi nghe chuyện-con-gián ấy, chị tâm sự rằng, cái tích tắc “rúng động” diễn ra trong tâm lúc ấy, chị hiểu đó là khoảnh khắc phát lộ của tình yêu thương. Đó là cái tình yêu không có một điều kiện nào cả, không chịu sự chi phối từ những tập quán hay khuôn thước quen thuộc của đời sống chung quanh. Nếu nhìn nhận theo cách quen, có thể có người cho rằng cái khoảnh khắc gọi là “rúng động” ấy có vẻ khó kiểm chứng, bởi vì nó vượt ra khỏi khả năng nhận thức bình thường của tri giác. Điều mà nhiều người cho là huyễn hoặc ấy cũng là việc… tự nhiên, bởi vì nó, đối với chị, cũng mất một thời gian khá lâu, chị cứ phải loay hoay đi tìm câu trả lời cho nguyên do của cái động tác không đưa chân giẫm bẹp con gián.
Rồi đến lúc được biết các thông tin về những phát kiến mới nhất của các nhà khoa học khi họ tìm cách giải thích những hành động của con người phần lớn là do vô thức điều khiển, chị mới thấy rằng, những phát hiện của các khoa học gia trong thế kỷ 20 đang dần dần đi đến gần với những lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ hơn 2500 năm trước… Và chị từ từ hiểu ra mối liên hệ giữa con người và thế giới chung quanh, ví như tập quán của người bình dân Việt Nam trong việc để tang cho cây cối trong vườn nhà khi gia đình có người qua đời… Tập quán tốt đẹp này là gì nếu không là sự biểu hiện của một cấp độ tâm thức khá cao, xuất phát từ sinh hoạt truyền thống của một đời sống gần gụi với thiên nhiên mà tiếc thay, trong mấy mươi năm gần đây, do sự lôi cuốn của vật chất đang dần chiếm ưu thế nên đã khiến cho sinh hoạt tinh thần của toàn xã hội bị giảm sút.
Người bạn của tôi không phải là tín đồ của một tôn giáo nào, không đến nhà thờ hay thiền viện. Nhưng chị vẫn tin vào quy luật nhân quả, luân hồi bởi chị cảm nhận được rằng, đó là sự vận động tự nhiên của toàn vũ trụ. Tôi biết như thế, bởi vì, có vài lần chị đã thuyết giảng cho tôi khá nhiều về vấn đề này, bằng cách dẫn trưng nhiều ý kiến của những nhân vật tên tuổi tầm cỡ thế giới.
Đó là triết gia vĩ đại của Hy Lạp và thế giới Socrates (469 TCN -399 TCN) với lời tự nói về bản thân: “Cuộc đời tôi đối với tôi thường giống như một câu chuyện mà không có khởi đầu và không có kết thúc… Tôi có thể đoán được một cách hợp lý rằng mình đã từng sống trong những thế kỷ trước đây và ở đó tôi đã gặp phải những câu hỏi mà tôi chưa thể trả lời được; rằng tôi đã được sinh ra lần nữa bởi vì tôi chưa hoàn thành sứ mệnh được trao”.
Đó là Hoàng đế nước Pháp Napoleon (1769-1821) với câu nói vui mà thực, rằng ông “không bắt đầu khi được sinh ra, cũng không phải khi được thụ thai”. Vị hoàng đế này nói: “Tôi lớn lên, phát triển, qua hàng vạn thiên niên kỷ không thể tính đếm. Tất cả bản ngã trước đây của tôi đều có tiếng nói, tiếng vọng của họ, đang thúc giục trong tôi. Ồ, tôi sẽ lại được sinh ra vô số lần nữa”…
Vốn là người ham thích đọc sách, tất nhiên trong câu chuyện của chị không thể vắng mặt văn hào Nga Lev Tolstoi (1828-1910) với xác tín của ông rằng: “Tôi đã được sinh ra nhiều lần hơn bất kỳ ai, ngoại trừ Krishna”. Đó còn là niềm tin của một nhà lập quốc của Hoa Kỳ là Benjamin Franklin (1706-1790) khi ông nói: “Tôi biết thuyết luân hồi từ khi tôi 26 tuổi”; hoặc một trong những người giàu nhất thế giới là Henry Ford (1863-1947), người sáng lập công ty Ford Motor: “Trên thế giới có nhiều người tin vào sự luân hồi. Một số chỉ tin một cách hời hợt mơ hồ, nhưng cũng không ít người hiểu luân hồi là một quy luật của sự sống, và quy luật ấy có ý nghĩa rất sâu xa”.
Ghi lại những điều chị đã nói, tôi chỉ muốn bày tỏ rằng, dù không là Phật tử, nhưng người bạn của tôi đã cố công tìm hiểu những vấn đề cơ bản của Phật học. Không là Phật tử, nhưng có lẽ chị đã đủ duyên lành để có thể sống theo những chỉ dẫn của các bậc thầy một cách tự nhiên; tự nhiên như quy luật sanh tử-tử sanh bất tận của mỗi kiếp người.
Không là Phật tử, nhưng lúc nào chị cũng tôn kính những người tu hành chân chính, vì chị cho rằng, bản thân chị là người chưa dứt bỏ được chuyện đời, chưa thể vươn tới tầng nấc đạo đức cao quý của giới tu sĩ; rằng họ chính là tấm gương mà mọi người cần phải noi theo. Nhưng chị cũng không ngại bày tỏ sự bất bình trước những người đã xuất gia mà phẩm hạnh kém, khiến cho hình ảnh tăng đoàn bị ảnh hưởng không tốt. Lạ thay, bằng cách tự nhiên và bình thường, chị thực hành rất tốt năm giới cấm của phật tử. Điều quan trọng nhất đối với chị, là phải tôn trọng sự sống của mỗi “hữu tình”, dù đó là những sinh vật bé nhỏ hay những con người bình thường vẫn gặp hằng ngày…
2.
Có thời gian, tôi cư trú tại vùng ngoại ô của một thị xã nhỏ, dân cư còn thưa thớt và nhịp sinh hoạt-làm ăn của bà con cũng thong thả. Giống như mọi người, tôi cũng có một việc làm với thu nhập tạm đủ sống. Sau ngày làm việc khá nhọc mệt, đêm về giấc ngủ vẫn không yên, thường bị nhiều tiếng động khiến cho giấc ngủ không sâu. Ban đầu, tôi chẳng lưu tâm, nghĩ rằng đó là việc bình thường, vì có chốn đô thị nào mà chẳng ồn ào, dù chỗ tôi ở là một nơi không quá đông đúc. Những âm thanh quen thuộc như tiếng trẻ con khóc dạ đề rấm rứt, tiếng karaoke nhức nhối của cánh nhậu nhẹt lè nhè, tiếng cằn nhằn của những cặp chồng-vợ cuối một ngày mưu sinh vất vả…
Ban đầu, tất nhiên là có khó chịu, nhưng dần dà rồi cũng quen tai. Nhưng đến một lúc, sau những lần bị thức giấc giữa đêm, bỗng dưng tôi mới nhận ra dường như có điều gì khác lạ. Không ngủ được, đành phải bắt buộc… lắng nghe. Và chợt hiểu, đó là những tiếng động không bình thường, không phải do con người gây ra. Có nghĩa là… Bất chợt tôi cảm thấy lành lạnh: Thì ra, nơi tôi ở, trước đây là vùng chiến sự khá ác liệt. Và cách căn nhà tôi trọ không xa, là một nghĩa trủng [mộ tập thể vô danh] với tấm bia ghi lại sự hy sinh của một đơn vị quân đội…
Cuộc chiến kéo dài mấy mươi năm trên quê hương thân yêu đã gây ra biết bao tang thương chết chóc và quá nhiều mất mát! Giờ đây, tiếng súng bom không còn nhưng những dư chấn của nó thì vẫn hiện diện đâu đó, trong lòng người và trong thế giới mắt thường không nhìn thấy. Thân xác họ không còn tồn tại trên cõi này, nhưng họ vẫn còn cần đến tình cảm sẻ chia của những người còn sống. Chía sẻ về tất cả những oan ức, đau đớn, dằn vặt mà họ đã phải chịu đựng; và trong cõi u minh, họ vẫn ước mong được siêu thoát.
Phải làm sao để cuộc sống được bình an thật sự? Phải làm sao để cho hàng triệu vong linh không còn vất vưởng trong cảnh giới tăm tối u mờ? Đó là câu hỏi lớn đặt ra cho xã hội, cho những tổ chức thiện nguyện. Và từ mấy mươi năm nay đã có nhiều người cùng nhiều việc làm cụ thể, thiết thực diễn ra như việc kiếm tìm hài cốt người hy sinh, như việc tổ chức những giới đàn siêu sinh bạt độ…
Có lẽ chính vì vậy mà trong các cuộc trai đàn giải oan với tâm nguyện và mục đích cầu nguyện cho được “âm siêu dương thái”, ý nghĩa của những khái niệm như cái Chết đưa đến sự trút bỏ mọi hận thù, xung đột, là hóa giải và tự hóa giải giữa các kẻ thù, mọi vong hồn của những người liên quan sẽ không còn đeo bám quấy phá hoặc ôm hận chờ báo oán; để rồi giảm bớt được gánh nặng ám ảnh của quá khứ cho tâm hồn được nhẹ nhàng khi đứng trước đời sống…
Tôi vẫn hằng tin rằng, chính sự bình đẳng, không phân biệt tuổi tác, giới tính, hoàn cảnh xuất thân là tinh thần chính yếu trong những lễ cầu nguyện. Còn về mặt tín ngưỡng, thì những cuộc nguyện cầu luôn được thực hiện theo bản chất hành thiện trên nền tảng tâm linh-tinh thần khá rộng rãi và thường xuyên mà chúng ta vẫn thường chứng kiến, dù đó là việc diễn ra ở một nhóm bằng hữu, một gia đình hay cư dân trong một khóm phố.
Còn riêng đối với bản thân một vô danh nhỏ nhoi, thì tôi tự biết, mình chẳng làm được gì cả! Thôi thì, chỉ còn biết bày tỏ chút ý lành bằng cách tụng thêm một câu chú vãng sanh vào thời khóa mỗi tối của mình, với lời bày tỏ trong yên lặng, hướng tới những “người” trong cõi vô hình, rằng: Cầu xin chư vị hãy tìm nơi tu tập để có được một đời sau tốt hơn!
Và tôi nhớ lời Thầy tôi đã dạy, rằng nền tảng và hiệu quả của việc trì tụng kinh-chú, là sự toàn tâm toàn ý hướng đến đối tượng với tình yêu thương thực sự chân thành. Trong thời khóa hằng đêm, tôi nghĩ đến những thân bằng quyến thuộc đã không còn trên dương thế. Tôi cố gắng nhớ lại những người thân và sơ đã qua đời. Tôi nguyện cầu các vong linh còn đang quanh quẩn quanh đây hãy lìa bỏ những trói buộc của chướng nghiệp nhiều đời do tam độc gây ra, dù họ chết vì nhiều lý do khác nhau (như đuối nước, xe cán, đâm chém hay bệnh tật…) mà chưa được siêu thoát, nên còn vất vưởng đó đây.
Trong Văn tế thập loại chúng sanh, Nguyễn Du đã trải tấm lòng yêu thương rộng lớn đến mười loại chúng sinh khi thi hào từng viết:
“Mỗi người một nghiệp khác nhau,
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ”.
Dù họ là những người vì nước bỏ mình (thủ hộ quốc giới) hay chết nơi tha hương bờ bụi (ly hương khách địa) hoặc vì bất cứ lý do gì thì họ vẫn không được yên ổn nên thường tùy theo hoàn cảnh mà hiện ra. Và điểm chung nhất của họ là phải chịu rất nhiều đau đớn. Chư Phật từ bi vô hạn, nên mới không phân biệt, để mà “Chúng sanh vô biên khổ nguyện độ”, hay hạnh nguyện của Đức Địa Tạng Bồ Tát: “Độ tận chúng sanh mới thành Phật”…
Từ chút nhận thức nhỏ bé như thế, tôi tự dặn lòng: Hãy chân thành yêu thương họ…
*
Rồi một hôm, đang giữa lúc trì tụng, tôi chợt thấy điều gì chớp nháng lên trong lòng. Không hiểu điều ấy gọi tên là gì, tôi chỉ có thể tạm giải thích cho bản thân, rằng phải chăng, đó là khoảnh khắc hiển lộ cái kết quả của tình cảm chân thành mà tôi đã trao gửi đến “họ”?
Về sau nhớ lại, khi ấy trong những lúc hành trì, tôi thường có cảm giác lạnh trên lưng. Tôi đồ chừng rằng có những “người” đang ở rất gần.
Tôi sợ. Nhưng rồi không còn cách nào khác sau khi đã phát đi tâm ý thiện hướng về “họ” (và tất nhiên cũng cho chính mình nữa), tôi đành… liều, để có thể tiếp tục hằng đêm, hằng đêm…
Về cái cảm giác “lạnh” ấy, tôi từ từ cảm nhận được rằng, đó là tôi đã tiếp xúc với những sóng khác. Và tôi đã may mắn để hiểu được rằng, nếu lắng tâm để nghe, thì có thể “gặp” được những sóng những trường khác quanh bản thân, tùy theo từng đặc điểm tâm thức và cơ duyên của mỗi cá thể. Quán chiếu thêm, tôi nghĩ, đó là cái tôi, là cái ngã bao đời che phủ căn tánh trong sáng của mỗi cá thể, để rồi tạo nên cái “nghiệp”, theo từ ngữ nhà Phật…
Rồi sau một thời gian, những âm thanh bất thường ấy dần dần giảm bớt đi, giấc ngủ của tôi từ từ trở lại như trước… Hẳn nhiên là với đôi mắt trần tục, tôi không thể biết “họ” đã đi đến chốn nào. Chỉ hy vọng là họ đã ghi nhận được chút tâm thành của một sinh linh vẫn còn chìm nổi trong mấy mươi năm trên cõi đời này…
*
Chuyện về người bạn gái và chuyện của bản thân tôi có lẽ rất bình thường, thậm chí là tầm thường. Nhưng nếu nghĩ xa hơn một chút, phải chăng đó cũng là chuyện có thể gợi ra vài suy niệm có ý nghĩa. Ví như, Phật hiện diện mọi lúc mọi nơi mà không câu nệ vào các hình thức thể hiện hoặc các nguyên tắc các quy định nào. Ví như, tình yêu thương rộng lớn có thể tạo nên sự chuyển hóa-thay đổi lạ lùng, vượt quá nhận thức bình thường của các giác quan. Ví như, sự trung thực thật sự, là trung thực với chính bản thân mình chứ không phải với bất kỳ ai khác. Ví như, trong việc rèn luyện tâm-thân, cái thể hiện ra bên ngoài và cái ở bên trong có cùng chung sự thống nhất.
Ví như, theo luật biến thiên mà không thay đổi của vũ trụ, mùa Vu Lan tháng Bảy đâng hiện ra trong tiết trời đang bắt đầu chuyển mùa, cho mọi người con biết hướng về tình yêu thương Mẹ.
17.7.2022 – 14.9.2022 ●

(Truyện dự thi Phật Pháp Ứng Dụng do Chùa Hương Sen, Perris, California tổ chức năm 2022. Tác giả sống tại Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà, Đà Nẵng.)
Discover more from Tinh Tấn Magazine
Subscribe to get the latest posts sent to your email.