Mẹ, vị Phật đầu tiên trong đời tôi/ Quảng Thúy

*Đọc 6 phút*

Bài NGUYỄN THỊ MINH THÚY

Quay về ký ức ngày xưa ở Huế… Mẹ tôi thuê ngôi nhà trong đường Đoàn Thị Điểm, thẳng hướng cửa Ngăn là cổng Đại Nội, cuối đường là hồ Tịnh Tâm. Mẹ tôi có ba con, tôi và một anh một chị. Chúng tôi sống chung với Dì Hai, vợ kế cha tôi. Kể sơ lược là cha tôi hằng ngày ghé uống nước gần chỗ làm việc và quen Dì. Đến khi Dì có thai, ba về cho mẹ tôi hay và muốn trà rượu đơn sơ lên nhà Dì như là sự chấp nhận của bà vợ chính, vì ba mẹ Dì rất hiền, là ông bà vải chăm lo việc Chùa. Mẹ là mẫu người xem chồng như ông vua, chỉ biết phục tòng vâng dạ. Cha tôi lại đổi đi xa, nghe người quen mách báo ông còn quen ai nữa. Dì Hai buồn giận thổ lộ cùng mẹ tôi; mẹ suy nghĩ và khuyên Dì Hai “nên vào giữ ông chứ lương tiền chẳng bao nhiêu chia năm xẻ bảy thì con cái chịu thiếu thốn tội nghiệp.” Từ đó Dì vào sống chung với cha tôi.

Mẹ xoay sở mua bán đồ khô tại nhà nuôi con ăn học, thỉnh thoảng cha tôi cũng gởi tiền về phụ giúp. Cả xóm thường gọi mẹ tôi là bà Bụt, vì họ chứng kiến cảnh sống trên thuận dưới hòa của hai bà vợ không có chồng bên cạnh, xử sự như hai chị em ruột.

Giữa xóm có bà Hồng là người tu tại gia di chuyển vào Sài Gòn, có ý muốn bán nhà, nhiều người hỏi mua nhưng bà gọi mẹ tôi do “thấy bác là người hiền hậu phúc đức, bác có thể mua lại căn nhà này, vì tôi có bàn thờ Phật trang nghiêm, muốn để lại người kế tiếp giữ gìn.” Duyên đến với mẹ tôi làm chủ ngôi nhà này; bà Hồng tốt bụng chỉ lấy giá tiền thấp nhất so giá thị trường, vì hiểu mẹ tôi không đủ khả năng về tiền bạc.     

Từ khi có bàn thờ Phật, hằng ngày mẹ thay nước, hái hoa cắm chưng và thắp hương mỗi tối. Nhất là những ngày rằm, mồng một mẹ chạy xuống chợ thật sớm mua mấy nải chuối tươi về dâng Phật, vì nếu đi trưa thì không còn để mua.

Mỗi tối mẹ dẫn tôi lên Chùa Tịnh Bình gần nhà tụng kinh theo thời lễ. Còn nhớ lúc đó tôi khoảng 4, 5 tuổi, lên chùa các bà thương cho trái quýt, trái đào và hôn hít “cháu gái ngoan lắm, mẹ tụng kinh nhưng ngồi yên chẳng phá phách khóc lóc gì cả, nghe bà dặn nè, về nhà thấy con kiến con dế đừng giết nghe…” Tôi gật đầu, từ đó luôn im lặng ngồi bên mẹ, nghe mẹ tụng kinh và thích nghe tiếng khánh, tiếng mõ.

Lớn dần vẫn theo mẹ đi chùa, nhân duyên có bà bạn rủ mẹ đi Chùa Diệu Đế và mẹ quy y. Lễ lớn, có chú điệu tóc để chỏm phía trước, đạp xe trước đó vài ngày vào nhà đưa giấy mời, mẹ gởi cúng tịnh tài được ghi trong sổ. Ngày lễ mẹ đem theo bình chứa nước, ghé chợ mua đám cá sống để trong bình. Ra chùa giờ lễ mẹ nhắc tôi quỳ lên cùng mọi người, tôi nghe thầy đọc tên cha, Dì Hai và tên cả nhà, mẹ lạy nhiều lần (lớn lên tôi mới hiểu đây là lễ cầu an), sau giờ hành lễ, mẹ theo đoàn người ra trước sông thả cá.

Sau 75 tôi tìm đường vượt biên, mẹ lo âu nhắc nhở phải ăn chay, tôi quá bận thì giờ ra vào Sài Gòn, đeo đuổi chuyện liều mình sống chết, lo sợ hồi hộp chuyện hải tặc, tôi chẳng còn tâm trí nhớ lời mẹ. Lúc gần đi, tôi mới biết mẹ ăn chay dùm tôi một tháng, chỉ toàn cơm với dưa cải chua, vì bận chăm sóc cháu nội không còn thì giờ lo bản thân mình.

Cuộc trốn thoát lênh đênh trên biển cả, gặp bão giông ập sóng cao gấp ba đầu tôi trùm xuống. Chiếc ghe mong manh ngập nước nghiêng ngửa, tiếng khóc tiếng la trong đêm tối, người theo đạo nào la lớn lời cầu nguyện của đạo đó. Tôi nhắm mắt chờ chết liên tưởng hình ảnh cha mẹ tự hỏi “Con sắp chết rồi cha mẹ có linh tính nóng ruột gì không?” Và tôi niệm Phật, niệm Quan Thế Âm Bồ Tát liên tục, xen lẫn tiếng “Amen” cùng những tiếng nói hoảng loạn “bà con bình tĩnh tát nước ra, ghe nghiêng bên nào ngồi trở ngược lại bên nhẹ.” Mênh mông biển cả, người ướt như chuột lột lạnh run, miệng vẫn nhất tâm niệm Phật, mỏi mòn mê thiếp cho đến khi ánh nắng chiếu sáng mới hay mình còn sống.

Ghe được kéo qua đảo Bidong. Trải qua sự gian nan cùng cực, đùa giỡn với tử thần, chưa kể số người qua đảo bị mất được chôn cất nơi đây, nên con người càng có niềm tin mãnh liệt về tôn giáo, vì vậy ngôi Chùa Từ Bi và ngôi Nhà Thờ được xây dựng nằm trên đồi Tôn Giáo của đảo. Sự mệt mỏi và hãi hùng khiến tôi muốn ăn chay, muốn sám hối với mẹ đã ăn dùm, muốn tu tập tạo phước thiện để tạ ơn trời đất, nên từ đó thích lên chùa thắp hương, nghe kinh kệ.

Sau một tháng ở đảo, tôi được chuyển qua trại Sungei Besi thuộc ngoại ô Kuala Lumpur, thủ đô của Malaysia. Nơi này cũng có nhà thờ, ngôi chùa được dựng lên làm mái ấm tâm linh tạm thời đời tỵ nạn. Những hoàn cảnh bị hải tặc đầy đau đớn bi ai, những câu chuyện thương tâm chung quanh san sẻ, tôi đã cảm nghiệm được địa ngục trần gian mà loài người đang hứng chịu. Mỗi chiều tôi lên chùa niệm Phật nghe pháp, cầu nguyện cha mẹ được bình an, những nạn nhân bị hải tặc đày đọa bớt điên loạn, nhanh phục hồi tâm trí.

Đến Mỹ bắt tay vào công việc, “cày bừa” ngày hơn 12 tiếng, ra đi khi trời chưa sáng và trở về lúc trời nhá nhem tối, nhưng bù lại tôi được trả hiếu cho cha mẹ, thể hiện tình thương với anh chị em, các cháu và trả ơn cho những ai đã từng có tình, giúp bạn bè nghèo khổ… Tôi cảm thấy thỏa lòng nhưng còn ao ước được đi chùa nhiều hơn.

Ngày xưa mẹ tôi có tánh thương người, tôi từng chứng kiến mẹ nhiều lần… Lúc ngồi trên chuyến xe từ lục tỉnh lên Sài Gòn, khi mọi người xuống xe ăn trưa, mẹ con tôi mua ổ mì giá 1 đồng bạc ngồi trên xe nhai, thấy cô bé khoảng 15 tuổi không ăn uống gì, mẹ hỏi, em kể chỉ có 5 đồng để thuê xe về cư xá Thanh Đa, mẹ rút tiền cho 5 đồng nhắc em xuống xe mua gì ăn cho đỡ đói. Mẹ quay sang nói với tôi “Con thấy không, chung quanh còn có người nghèo cực hơn mình nhiều lắm, mẹ hay hà tiện không dám tiêu phung phí là để san sẻ bớt cho người khác.”

Bà hàng xóm dụ mẹ chơi hụi rồi giựt trốn mất, để lại chồng con ở nhà. Có lần bà về ban đêm bị hàng xóm phát giác lôi lên đồn công an xử, bà phải đền tiền, thế là bà hết trốn, phải ở nhà chịu trận, hàng xóm không thèm nhìn mặt, chỉ có mẹ tôi luôn chào cười vui vẻ. Mẹ giải thích với anh chị tôi “Tội người ta, vì túng quẫn sinh liều lĩnh nên vợ chồng con thơ phải xa cách, nên tha thứ để bà trở về sum họp với gia đình.”

Đối với hàng xóm mẹ tôi chưa hề làm mất lòng ai. Có trường hợp hai bà bạn không thích nhau, thường qua kể lể mẹ nghe, chỉ thấy tiếng mẹ “Dạ, dạ” chứ chẳng nói gì thêm. Khi bạn mẹ về, anh chị tôi hỏi “Mẹ về phe ai?”, mẹ nhìn các con nghiêm mặt “Nghe đâu bỏ đó, ai mẹ cũng quý, nếu có lên tiếng mẹ sẽ lựa lời để họ hòa thuận thôi.”

Đó là vị Phật đầu tiên tôi được chứng kiến. Hành động, cách cư xử, lời ăn tiếng nói của mẹ đã in vào đầu óc, trái tim tôi sâu đậm về điều Chân, Thiện, Mỹ.

*

(Trích đoạn từ truyện dự thi Phật Pháp Ứng Dụng do Chùa Hương Sen, Perris, California tổ chức năm 2022. Tác giả Nguyễn Thị Minh Thúy, Pháp danh Quảng Thúy, sinh hoạt tại Chùa Phổ Từ, Hayward, California. Tựa bài do Tinh Tấn đặt.)

Photo minh họa: Pixabay/ Pexels


Discover more from Tinh Tấn Magazine

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *