Bài SATYA ROBYN
Phiên dịch Phúc Quỳnh
(Bà Satya Robyn là một nhà văn, chuyên viên trị liệu tâm lý, nhà hoạt động môi sinh. Bà thực hành pháp môn Tịnh Độ, là Mục Sư tại đạo tràng Bright Earth Buddhist Temple, thành phố Great Malvern, Anh, cộng tác với tạp chí Phật Giáo Tricycle. Bài viết này trích từ bài giảng video tựa đề ‘The Consolation of Amitabha Buddha’ được Tricycle đăng ngày 1 tháng 8, 2023. Tinh Tấn xin mạn phép chuyển ngữ nhằm mục đích phục vụ cho sự lợi lạc của chúng sanh.)
Đầu tuần này, khi chuẩn bị cho câu chuyện được trình bày ngày hôm nay, tôi đã tìm kiếm một phát ngôn nào đó của ngài Thân Loan (1173-1262). Ngài sống vào thời Kamakura ở Nhật Bản và sáng lập trường phái Tịnh Độ Chân Tông. Tôi là một cư sĩ Tịnh Độ. Khi đang xem mấy cuốn sách của mình để tìm một câu đúng ý nhất, tôi nghe tiếng mấy con chó trong phòng khách ở bên cạnh. Chúng muốn ra ngoài. Thế là tôi phải ngưng đọc để cho chó ra sân. Một hồi sau chúng muốn vào nhà. Tôi chưa tìm ra một câu ưng ý, thế rồi tôi lại ra mở cửa cho chó vào.
Khi trở lại phòng làm việc, tôi nhận thấy con chó Ralph nhỏ của chúng tôi có một cái nhìn hơi lạ. Hồi mới về với chúng tôi thì Ralph được bảy tháng tuổi, nó là loại chó Shih Tzu trắng với hàm răng dưới lộ ra ngoài. Ngày Ralph mới đến, chúng tôi tưởng nó là một con chó rất ôn hòa, và cho rằng mình may mắn. Những người chủ trước của Ralph nói rằng nó rất bình tĩnh khi gặp mèo, nhà chúng tôi có một con mèo. Nó rất bình thản trong thời gian đầu tiên, nhưng đến khi quen nhà, nó bắt đầu lộ ra bản chất từng được che giấu đằng sau bề ngoài lạnh lùng. Nó sủa và rượt mèo của chúng tôi, sủa mấy con chim, sủa rất lớn đối với mấy con chó khác. Và nó không biết cách giao tiếp với chúng tôi. Nó chưa bao giờ có mối quan hệ nào. Nó không biết chơi, chưa bao giờ chơi với những con chó khác hoặc chơi với người.
Thế nên khi cho mấy con chó trở vào phòng khách, tôi nhân cơ hội này xem thử mình có cách nào làm cho Ralph tiến bộ hơn về mặt chơi giỡn và học thêm đôi chút. Tôi cúi mình, quỳ xuống, chống hai tay trên thảm làm tư thế mời chơi như… chó, quý vị chắc cũng từng thấy chó làm như thế, cúi mình xuống và mở to mắt. Và nó nhìn tôi như thể tôi là bà… điên. Thấy nó đứng yên, tôi nghĩ, thôi, mình đã lầm tín hiệu của nó, rồi tôi quay về phòng làm việc. Khi bỏ đi, tôi bỗng nghe có tiếng động sau lưng. À, nó cũng đang cúi sát người xuống thảm, hai chân trước sải dài ra, nhìn tôi với ánh mắt hào hứng, mời gọi. Thế là chúng tôi có một cuộc chơi. Ralph rượt tôi chạy quanh phòng khách, tôi rượt Ralph quanh phòng khách, chúng tôi có một cuộc vật lộn.

Khi thấy nó đủ mệt, tôi nghĩ, “Được, đến lúc mình trở lại làm việc,” và trở về với mấy cuốn sách. Ngồi xuống đọc tìm một câu đắc ý, tôi chợt nghiệm ra rằng nãy giờ mình đã tìm kiếm một câu nào đó cho thấy mình là kẻ tài giỏi, một câu đưa người xem video đến sự giác ngộ, hoặc một câu ít nhất làm cho tôi được xem như là một giảng sư Phật Pháp tuyệt vời. Tôi thích thú khi đọc được câu đầu tiên trong cuốn ghi lời của ngài Thân Loan (và ngài nói về chính mình) như sau:
“Tôi là kẻ không biết đúng với sai
Không thể phân biệt giữa giả và thật;
Tôi còn không có một chút tình thương,
Vậy mà thích dạy người, vì danh lợi.”
Tôi thích bài thơ này quá, nhất là câu cuối cùng vì nó nói thẳng vào một phần trong tôi về việc muốn đưa nhiều thứ vào bài pháp, về sự mong cầu được danh, được tiền. Tôi nhận ra rằng mình đã rối rắm trong việc chuẩn bị cho bài nói, và sự rối rắm đó xuất phát từ nhu cầu muốn cho người khác thấy mình hay, mình giỏi. Điều mà tôi rất thích về ngài Thân Loan, và Phật Giáo Tịnh Độ nói chung, là cách nhìn thực tế về bản chất yếu đuối của con người. Trong Tịnh Độ Nhật có từ ngữ “bombu,” nghĩa là “chúng sanh si mê.” Khi nghe từ này, tôi thường tưởng tượng một miếng bấc trôi nổi trên mặt sóng của tham, sân, và si, và chúng ta bị lôi cuốn bởi những nghiệp lực mà ta không hề hay biết.
Ngài Thân Loan thấy điều này. Ngài đã thật sự trải nghiệm điều đó trong cuộc đời của chính mình. Ngài ước mong tâm linh mình được thanh tịnh, ngài rất uyên bác, ngài dành nhiều năm để nghiên cứu kinh sách và học hỏi từ các vị thầy khác, kể cả sư phụ của thầy là ngài Pháp Nhiên Thượng Nhơn. Thế nhưng ngài vẫn gặp phải một bức tường là sự giới hạn của bản thân mình, sự khiếm khuyết, muốn làm điều tốt nhưng không thể thực hiện được. Khi đọc câu đó, tôi thật sự nghe rõ tâm tình chân thật của ngài về chính ngài, rằng ngài thích dạy người khác, nhưng dạy chỉ vì danh, vì lợi. Tôi rất biết ơn là mình có thể có được những lời giảng dạy này, vì chúng đánh thức tôi ra khỏi sự mê muội, y như con Ralph đã kéo tôi ra khỏi cơn mê của tôi. Bài thơ của ngài Thân Loan đã có tác động tương tự như Ralph muốn tôi chơi với nó, đưa tôi ra khỏi sự bận tâm về việc tạo ấn tượng cho mình đối với người khác.

Và rồi tôi tìm ra câu thứ hai, tuyệt đẹp vì sau câu đầu mở ra thì câu này khép lại một thứ kinh nghiệm mà tôi thường có khi gặp sự trình giảng như thế này. Tôi sẽ đọc cho bạn nghe câu ấy và sẽ nói về ba giai đoạn mà tôi đã trải qua. Đây là lời của ngài Thân Loan nói về Đức Phật A Di Đà, vị Phật mà chúng ta có quan hệ với khi tu Tịnh Độ, vị Phật của vô lượng quang. Chúng ta thấy ánh sáng là minh họa cho tình thương. Chúng ta thường nói trong đạo tràng này rằng Phật A Di Đà đón nhận chúng ta như chúng ta đang là, Phật đón nhận tất cả mọi chúng sanh. Khi ngài Thân Loan nói về Phật A Di Đà, tôi rất thích cảm giác mà tôi có được từ những lời của ngài, vì những lời đó trùng hợp với cảm giác của tôi trong một mối quan hệ thương yêu thật sự, những lời thật đúng. Đây là câu thứ hai:
“Ánh từ bi soi sáng từ phương xa;
Chúng sinh nào nhận được ánh sáng ấy,
Được giảng dạy niềm vui của giáo pháp,
Vậy hãy quy y Phật A Di Đà,
Ngài là niềm an ủi lớn lao.”
Khi sống trong câu nói ấy, tôi đã rơi lệ vì nó trở thành sự thật trong tôi. Tôi đã may mắn nếm được điều mà ngài Thân Loan muốn nói. Tôi đã thật sự thích hai chữ “an ủi.” Một lần nữa, tôi không nghĩ hai chữ này thường được nhắc tới trong giới Phật tử. Nhưng đối với tôi, đời sống tâm linh chính là tìm được sự an ủi, tìm được một điểm dựa vững chắc giúp cho chúng ta được bình yên, nơi chúng ta cảm thấy mình được tiếp nhận, để rồi từ đó chúng ta có thể đi tới và làm những gì cần phải làm trong thế gian, đối phó với những gì chúng ta cần phải đối phó.
Ba giai đoạn của tiến trình quay về – tôi tính nói quay về với chính mình nhưng ngược lại, là quay về với Phật – đầu tiên là bước vào sự rối rắm. Khi tìm kiếm một câu nói hoàn hảo, tôi mỗi lúc một thêm dính mắc, chờ đợi một giải đáp cho sự lo lắng hay sự háo danh. Sự dính mắc đó diễn ra trong vô thức. Chúng ta không hề biết, cho dù có vài tín hiệu chăng nữa, chúng ta vẫn không thấy vì mãi nhìn qua quan điểm của sự dính mắc.
Giai đoạn thứ hai là tỉnh thức, nhận ra bản tánh si mê của mình. Câu nói của ngài Thân Loan về sự không có chút tình thương đã đánh thức tôi như vậy. Khoảng khắc mà chúng ta có cảm giác khó chịu khi bất ngờ thấy ra được sự lố bịch của mình. Tôi đang cười khi nói điều đó vì chiều sâu của sự nhìn nhận về sự lố bịch hoặc si mê, mà có thể là rất sâu. Nhưng đó không là điều để phải xấu hổ, không phải để nghĩ mình “là người xấu tệ.” Tôi luôn tưởng tượng nét cười gượng trên khuôn mặt của Đức Phật khi bị thấy như vậy hay nhìn thấy mình như thế, có lẽ Ngài nghĩ “Ồ, cô ta lại làm chuyện đó nữa, phù hộ cho cô.” Đó là cảm giác tôi tự cho mình.
Cơ hội này, tức là khoảnh khắc nhận ra những lớp tự vệ của chúng ta, là dịp nhắc nhở chúng ta rằng chúng sanh có giới hạn, và chúng ta có thể tiếp nhận tình thương không giới hạn.
Loài người từ những truyền thống khác nhau có những từ ngữ khác biệt cho sự việc đó. Phật tử thì có chữ Phật, nghĩa là đấng giác ngộ. Đối với Phật tử Tịnh Độ, chúng ta tạo mối quan hệ đặc biệt với Phật A Di Đà. Đây là nơi có thể có cánh cửa mở ra cho ánh sáng Phật A Di Đà được rọi chiếu vào chúng ta. Đây là một thiện phước. Một lần nữa, khi nói tôi rơi lệ là vì tôi thấy điều đó đến mà không có sự đòi hỏi, không có sự tìm kiếm, và thật tuyệt vời. Thật tuyệt diệu khi nếm được nó. Tôi có được kinh nghiệm tiếp nhận ánh sáng của Ngài, và tôi an trú trong Phật A Di Đà và cảm được sự an ủi lớn lao của Ngài. Thế rồi 30 giây sau đó, hoặc năm phút nếu may mắn, tôi trở lại với sự rối rắm một lần nữa. Được sống, được hít thở là như thế.
Tin vui là chúng ta thường có một con chó nhỏ muốn đến chơi với chúng ta, hoặc có một vị thầy nào đó dám nhìn nhận sự si mê của họ, hoặc có một con chim đen đang hót, hoặc một miếng bánh mì bật lên từ máy nướng. Mọi thứ chung quanh chúng ta đều có cơ hội và khả năng thị hiện thể tánh của Phật. Phật thị hiện trong nhiều hình thức khác nhau. Con Ralph đã mang Phật đến cho tôi vào lúc ấy.
Đó là tất cả những gì tôi muốn nói. Tôi xin được mời bạn và mong bạn nhận lời. Bạn hãy thử nghiệm niệm Phật, nếu chưa từng làm như thế. Là một Phật tử Tịnh Độ, điều tôi thích nhất là sự giản dị của pháp môn đó. Có câu chuyện khá phức tạp đằng sau pháp môn, nhưng tôi không cần phải đi sâu vào nó, vì tất cả những gì bạn cần biết là chúng ta được Phật A Di Đà hỗ trợ, đó là lời mở đầu và cũng là câu kết thúc. Chúng ta có thể kết nối với Phật, chúng ta có thể trải nghiệm sự an trú hoặc được Phật A Di Đà nắm bắt, không bao giờ bị bỏ rơi một khi đã nói lên danh hiệu Phật A Di Đà, một khi đã niệm hồng danh của Ngài.
Niệm Phật là niệm hồng danh Phật A Di Đà. Đó là một cách tu tập dành cho tất cả mọi người, bạn không cần phải dành riêng thời giờ cho nó, bạn không cần phải là một học giả. Không cần thiết phải có một cuộc sống đức hạnh hay không. Ý chính là mọi người đều có thể được ôm trong vòng tay của Phật A Di Đà và được trải nghiệm sự an ủi của Ngài.
Người ở các xứ có cách niệm Phật khác nhau. Cách chúng ta niệm tại đạo tràng Bright Earth School là “Namo Amida Bu,” một hình thức Anh hóa cách niệm Phật “Nembutsu” của người Nhật. Namo là “Con gọi tên,” hoặc “Con an trú trong,” thỉnh thoảng tôi nghĩ đến đứa bé trong tôi gọi tên Ngài. A Di Đà là một danh hiệu của Phật, và Bu là chữ tắt cho Phật theo tiếng Nhật.
Vậy “Namo Amida Bu” là “Nembutsu” tiếng Nhật [“Nam Mô A Di Đà Phật” tiếng Việt]. Tôi mời bạn niệm Phật mỗi ngày một lần trong một tuần và xem thử như thế nào. Bạn có thể niệm Phật khi xá lạy trước bàn thờ ở nhà, nếu bạn có bàn thờ, hoặc bạn có thể niệm Phật khi xá mặt trời hoặc một vật thể nào đó kết nối bạn với đấng lớn hơn.
Bạn có thể nhớ đến sự si mê của mình khi niệm Phật. Nhưng điều hay nhất về pháp môn Tịnh Độ là bạn cũng không cần phải lo lắng ngay cả chuyện đó. Bạn chỉ cần nói lên danh hiệu Phật và Phật sẽ đón nhận bạn, và mọi thứ đều được bảo đảm. Tất cả đều ổn hết. Điều đó không có nghĩa là mọi thứ trên thế gian đều được sửa chữa, lẽ đương nhiên, và cuộc sống vẫn có những khó khăn của nó. Nhưng bạn sẽ có cảm giác đằng sau mọi chuyện là bạn được đứng trên một nền tảng vững chắc, hoặc bạn được thấy, được biết, và được yêu thương, và điều đó làm cho mọi chuyện khác trở nên dễ dàng hơn. Đây là điều rất khó giải thích.
Điều hay nhất là bạn hãy thử niệm rồi xem như thế nào. “Nam Mô A Di Đà Phật.”
Cám ơn bạn đã lắng nghe! Phật tử Tịnh Độ chúng tôi thường nói “Nam Mô A Di Đà Phật” trong nhiều trường hợp, chẳng hạn như khi chúng tôi làm rớt một thứ gì đó, hoặc khi gặp một người, hay trước khi ăn. Đó cũng là một cách “xin cho” hay “cám ơn.” Vậy thì tôi xin kết thúc bằng câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật.”

Discover more from Tinh Tấn Magazine
Subscribe to get the latest posts sent to your email.