Phật Giáo Mahayana (Thích Nguyên Nguyện)

*Đọc 11 phút*

Bài THÍCH NGUYÊN NGUYỆN

Phật Giáo Mahāyāna là con đường Bồ Tát (菩薩-Bodhisattvayāna) và trí tuệ siêu việt (般若波羅蜜多 -Prajñāpāramitā) để trở thành một vị Phật giác ngộ hoàn toàn vì lợi ích của tất cả chúng sinh, và do đó cũng được gọi là “Bồ Tát Thừa” (Bodhisattvayāna). Phật Giáo Mahāyāna thường coi mục tiêu trở thành một vị Phật thông qua con đường Bồ Tát là có sẵn cho tất cả mọi người .

Những trung tâm học thuật liên quan đến Phật Giáo Mahāyāna: Nalanda (427-1400), thành lập bởi hoàng đế Kumaragupta I của Đế Chế Gupta vào khoảng năm 427 Công Nguyên (CN); trung tâm Vikramashila (Bihar, Ấn Độ) do đức vua Dharmapala (thế kỷ thứ 8 hoặc 9) phát triển khoảng từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 12, thời Đế Chế Pala vua Gopala I thành lập trường Odantapuri (còn gọi là Odantapuri hoặc Uddandapura) là trường đại học Phật Giáo nổi tiếng tại Bihar Sharif ở Bihar thế kỷ thứ 8. Kinh văn Ugraparipṛcchā là đại diện truyền thống Mahayana sớm nhất tại Ấn Độ.

Phật Giáo Mahāyāna đã lan rộng từ Nam Á sang Đông Á, Đông Nam Á và các vùng Himalaya như: Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Indonesia. Phật Giáo Mahayana Kim Cang Thừa (Vajrayāna) phát triển tại Tây Tạng, Mông Cổ, Bhutan, Nepal, Malaysia, Indonesia và các khu vực có cộng đồng người châu Á di cư.

 Thuật ngữ Mahāyāna (Cỗ Xe Lớn hay Cỗ Xe Bồ Tát). Thuật ngữ Mahāyāna đơn thuần chỉ con đường Bồ Tát Hạnh (Bodhisattvayāna).

 Những bộ kinh Mahāyāna sớm nhất là Kinh Pháp Hoa, (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra) có niên đại từ thế kỷ thứ 1 trước CN đến thế kỷ thứ 1 sau CN, thuật ngữ đầu tiên được sử dụng trong phiên bản Gandhāri Prakrit ngữ là từ Prakrit mahājāna theo nghĩa của mahājñāna (trí tuệ vĩ đại).

Trung Quốc dịch Mahāyāna (摩诃衍那.) là Đại thừa (大乘), maha (đại 大) yana (xe 乘) phiên âm 摩诃衍那. Thuật ngữ này xuất hiện sớm nhất trong Kinh Pháp Hoa dưới thời đế chế Hán Linh Đế, trong các kinh A-hàm của Trung Quốc

Tam Tạng kinh Điển của Mahayana đều có nguồn gốc từ Thuyết Nhất Thuyết Hữu Bộ (Mahāsāṃghika) vào thế kỷ thứ 1 trước CN tại vùng Āndhra thuộc miền nam Ấn Độ. Học thuyết Mahāsāṃghika về bản chất siêu thế gian (lokottara) của Đức Phật đôi khi được coi là tiền thân của quan điểm Mahāyāna về Đức Phật .

 Tư tưởng Long Thọ (Nāgārjuna), Duy Ma Cật (Vimalakirti), Nguyệt Xứng (Candrakīrti), Thánh Thiên (Āryadeva), Thanh Biện (Bhavaviveka) đều liên quan đến Thuyết Nhất Thuyết Hữu Bộ (Mahāsāṃghika) và Đàm Vô Đức Bộ (Dharmaguptaka).

 Lý thuyết Mahāyāna chủ yếu xuất hiện trong số “những nhà khổ hạnh cứng rắn, thành viên của cánh sống trong rừng (aranyavasin) của giáo đoàn Phật Giáo” dựa trên một số kinh điển Kinh Pháp Kính (Ugraparipṛcchā Sūtra) và Mahāyāna Rāṣṭrapālapaṛiprcchā), Chi Lâu-ca-sấm (Lokakṣema- 支婁迦讖 . 147-189) là vị trưởng lão Mahayana đầu tiên đến kinh đô Lạc Dương của nhà Hán vào cuối đời Hán Hoàn Đế (147-168). Đến giữa năm 178-189 (đời Hán Linh Đế) ngài dịch hơn 10 bộ kinh văn Đại thừa từ tiếng Sanskrit sang chữ Hán. Ngài thường trú ngụ trong rừng thiền định sâu sắc và dịch kinh điển. Bản dịch đầu tiên là “Đạo Hạnh Bát-Nhã Kinh” từ nguyên bản tiếng Phạn ra chữ Hán; đây là bản dịch “Bát-Nhã Kinh” chữ Hán cổ nhất, và các kinh bản khác như 道行般若經 (Đạo Hạnh Bát-nhã kinh, bản dịch của Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra). Và các kinh bản khác như :佛說兜沙經 (Phật Thuyết Đâu-Sa Kinh, một phần của Kinh Avatamsaka), 阿閦佛國經 (A-Súc Phật Quốc Kinh, Akṣohhya-vyūha), 說遺日摩尼寶經 (Thuyết Di Nhật Ma-Ni Bảo Kinh, Kaśyapaparivrata),般舟三昧經 (Bát-Chu Tam-Muội Kinh, Pratyutpanna Samādhi Sūtra), 文殊師利問菩薩署經 (Văn-Thù-Sư-Lợi Vấn Bố-Tát Thự Kinh), 阿闍世王經 (A-Xà-Thế Vương Kinh, Ajātaśatru Kaukṛtya Vinodana Sūtra),佛說內藏百寶經 (Phật Thuyết Nội Tàng Bách Bảo Kinh) Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết (Vimalakirti Sūtra).

Mahayana Ấn Độ không hề có tạng luật (Vinaya) hoặc truyền giới riêng biệt từ Phật Giáo Tiền Kinh Văn, do đó bộ luật Đàm Vô Đức Bộ -Nikaya (Dharmaguptaka Nikāya) được sử dụng trong tăng đoàn tỳ kheo, tỳ kheo ni ở Đông Á. Bố phái Căn bản Thuyết Nhứt Thuyết Hữu Bộ (Mūlasarvāstivāda nikāya)được sử dụng trong Phật giáo Tây Tạng. Điều này cho thấy Phật Giáo Mahayana không đi xa quá với truyền thống ban đầu.

 Bản đá khắc sớm nhất được tìm thấy ở Mathura -Tiểu Lục Địa Ấn Độ vào năm 180 dưới thời Vua Huviṣka thứ 28 mà di tích còn lại là bức tượng Phật Amitābha có khắc dòng chữ Brāhmī: “Được làm vào năm 28 dưới triều đại của Vua Huviṣka.” Hoàng đế Kushan Huviṣka là Phật tử theo truyền thống Mahayana.

 Giai đoạn khoảng giữa thế kỷ thứ ba, thứ tư Phật Giáo Mahayana chưa thật sự phát triển mạnh tại tiểu Lục Địa Ấn Độ như Phật Giáo Theraveda.

 Phật Giáo tại Châu Á, bắt đầu từ thế kỷ thứ 5 trước CN. Mahāyāna, Theravāda, và Tantric-Vajrayāna trên “Con Đường Tơ Lụa” như “vòng tròn lớn của Phật giáo”.

 Phật Giáo Mahayana đến Ba Tư (Bamiyan) đầu thế kỷ thứ 5 được hoàng gia đón nhận tại vương quốc Shan Shan cũng như ở Bamiyan và Mathura. Pháp Hiển (Faxian 337–422 CN), Huyền Trang (Xuanzang 602–664), Nghĩa Tịnh (Yijing 635–713 CN) đã đến Ấn Độ và được ghi lại trong các hồi ký của quý Ngài.

 Thế kỷ thứ năm tư tưởng Phật Giáo Mahāyāna có ảnh hưởng đến ba trường Đại Học Phật Giáo lớn nhất: Nalanda, Vikramashila, Odantapuri. Trưởng Giả Chi Lâu Ca Sấm (Lokakṣema 167–186), Trưởng Lão Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa khoảng 265–313), Trưởng lão Cưu Ma La Thập (Kumārajīva khoảng 401), và Trúc Pháp Phong (Dharmakṣema 385–433) là những vị dịch giả đầu tiên của Phật Giáo Mahayana. Đôn Hoàng là địa điểm quan trọng để nghiên cứu Phật giáo Mahayana.

Trung Quán Tông Cưu Ma La Thập (Kumārajīva) dịch, Du Già Tông (Huyền Trang dịch) ảnh hưởng đến tư tưởng của Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông, Tịnh Độ Tông và Thiền Tông. Những truyền thống này sau đó sẽ lan sang Đại Hàn, Việt Nam và Nhật Bản.

 Bắt đầu từ thời kỳ Gupta (khoảng thế kỷ thứ 3 CN–575 CN), một phong trào mới bắt đầu phát triển dựa trên học thuyết Mahāyāna trước đó cũng như các ý tưởng mật tông Pan-Indian mới. Phong trào này được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Vajrayāna hay Mantrayāna là “Chân Ngôn Bí Mật” (Guhyamantra) phát triển vào thế kỷ thứ 8–thế kỷ thứ 12,

 Về mặt triết học, tư tưởng Phật giáo Kim Cang Thừa (Vajrayāna) vẫn dựa trên các ý tưởng Phật giáo Mahāyāna về Trung Quán Tông (Madhyamaka), Du già (Yogacara) và Phật tính. Mật tông thường đề cập đến thiền định và nghi lễ.

 Phật giáo Kim Cang Thừa (Vajrayāna) có nội dung mật tông từ Ấn Độ Giáo (Saivism) và Phật Giáo Mật Tông ảnh hưởng ở Kashmir Ấn Độ lan rộng về phía bắc vào Trung Á, cao nguyên Tây Tạng và Đông Á. Phật Giáo Kim Cang Thừa Vajrayāna là tông phái chính tại Tây Tạng, Bhutan và Mông Cổ. Các yếu tố bí truyền cũng là một phần quan trọng của Phật Giáo Đông Á, nơi nó được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau.

 Nền tảng của Phật Tử Mahayana là giáo lý Phật Giáo Nikāya và A-hàm, chẳng hạn như Trung Đạo, Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Tam Bảo, Ba Pháp Ấn, Abhidharma.

 Các vị Phật và Bồ Tát (chúng sinh trên con đường đạt đến Phật quả) là những yếu tố trung tâm của Mahāyāna. Mahāyāna có vũ trụ quan và thần học mở rộng rất nhiều, với nhiều vị Phật và Bồ Tát quyền năng trú ngụ ở nhiều thế giới và cõi Phật khác nhau (buddha kshetra). Các vị Phật độc đáo của Mahāyāna bao gồm: Phật Amitābha (Ánh Sáng Vô Hạn), Phật A-Súc-Bệ (Akṣobhya- 阿閦如来), Phật Dược Sư (Bhaiṣajyaguru – 藥師佛) và Đại Nhật Như Lai (Vairocana, 大日如来).

 Phật Giáo Tịnh Độ Tông luôn luôn có hạnh nguyện sanh về Cõi Tịnh Độ (buddhakṣetra) của Phật A Di Đà. Khái Niệm về Tam Thân (Trikāya) bao gồm Pháp Thân (Dharmakaya), Báo Thân (Sambhogakāya) và Hóa Thân (Nirmanakāya) .

 Thanh Văn (Śrāvakayāna) và Độc Giác (Pratyekabuddhayāna) thuộc truyền thống Phật Giáo Theraveda, trong khi Phật Giáo Mahayana có các Bồ Tát như Quán Thế Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, Thế Chí và Di Lặc. Hạnh Nguyện (Bồ Đề Tâm) của Bồ Tát qua vô số kiếp (asaṃkheyyas) phát nguyện tái sinh để hoàn thành hạnh nguyện Phật Quả

 Ngài Tịch Thiên (Bodhicaryavatara -Ấn Độ), A Đề Sa (Atisha), và Liên Hoa Giới (Kamalashila) dạy tất cả chúng sinh đã từng là họ hàng hoặc bạn bè thân thiết của chúng ta trong những kiếp trước cho nên Bồ Đề Tâm yêu thương sâu sắc (maitrī) và lòng trắc ẩn (karuṇā) đối với người khác.

 Ý tưởng về Bồ Tát không chỉ có trong Phật Giáo Đại thừa mà cũng có trong Phật Giáo Theraveda, và các trường phái Phật Giáo sơ khai khác. Tuy nhiên, các trường phái này cho rằng để trở thành Bồ Tát, người ta phải tiên đoán về quả vị Phật tương lai của mình trước sự hiện diện của một vị Phật sống. Phật Giáo Mahayana, thuật ngữ Bồ Tát được áp dụng cho bất kỳ người nào ngay từ thời điểm họ có ý định trở thành Phật, phát khởi Bồ Đề Tâm, thọ giới Bồ Tát (praṇidhāna) để đạt tới Ba La Mật (pāramitās): bố thí, trì giới, nhẫn nại, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ

 Một số bản kinh khác như kinh Daśabhūmika cho rằng có đến Thập Độ upāya: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ, phương tiện, khéo léo, thề nguyện, sức mạnh. Trí tuệ (Prajñā) được coi là quan trọng nhất của Bồ Tát.

 Nhiều kinh Phật Đại thừa khác nhau liên kết sự khởi đầu của việc thực hành Bồ Tát với cái gọi là “con đường tích lũy” hoặc trang bị (saṃbhāra-mārga), đây là con đường đầu tiên của lược đồ năm con đường cổ điển.

 Kinh Thập Địa (Daśabhūmika) miêu tả những quả vị Bồ Tát trên con đường dẫn đến Phật quả.

 Phương tiện khéo léo là một đức tính quan trọng trong Phật giáo Mahayana được miêu tả trong Kinh Bạch Liên Hoa mục đích dẫn chúng sinh đến sự giác ngộ và niết bàn.

 Prajñāpāramitā – Trí tuệ là điều tối thiết Phật và Bồ Tát đạt được. Đây là loại kiến thức siêu việt, phi khái niệm và phi nhị nguyên về bản chất thực sự của sự vật, gắn liền với sự thấu hiểu về tính không (śūnyatā) của các pháp (hiện tượng), và bản chất ảo tưởng (māyā).

 Tất cả pháp (Dharma) không thật tướng do duyên hợp, Niết Bàn cũng không thật có, cho nên tất cả các hiện tượng chưa phát sinh (anutpāda) hoặc chưa sinh (ajata) “vượt ra ngoài sự đến đi”. Bát Nhã Tâm Kinh nói rằng: tất cả các hiện tượng đều không, tức là không có đặc điểm, không sinh, không diệt, không ô nhiễm, không suy giảm, không đầy dẫn đến trạng thái không sợ hãi (ksanti).

 Sự vĩ đại của thực hành (pratipatti): thực hành toàn diện vì lợi ích của bản thân và người khác (sva-para-artha);

 Sự vĩ đại của sự hiểu biết (jñāna): từ việc hiểu sự vắng mặt của bản ngã trong con người và hiện tượng (pudgala-dharma-nairātmya);

 Sự vĩ đại của năng lượng (vīrya): từ sự tận tụy với hàng trăm ngàn nhiệm vụ khó khăn trong ba đại kiếp không thể tính toán được (mahākalpa);

 Sự vĩ đại của sự tháo vát (upāyakauśalya): vì không đứng trong Saṃsāra hay Niết bàn;

 Sự vĩ đại của sự thành tựu (prāpti): vì đạt được sức mạnh vô lượng và không thể đếm được (bala), sự tự tin (vaiśāradya), và các pháp độc nhất của chư Phật (āveṇika-buddhadharma);

 Sự vĩ đại của các hành động (karma): vì muốn thực hiện các hành động của một vị Phật cho đến khi Saṃsāra kết thúc bằng cách thể hiện sự giác ngộ, v.v..

Tụng hoặc đọc kinh, cầu nguyện, thần chú, và dhāraṇī là một yếu tố nghi lễ quan trọng khác trong Đại thừa. Phật tử Mahayana tôn kính: bảo tháp, đền thờ, đền thờ (chaitya) có tượng Phật và các đền thờ và hang động Phật Giáo khác. Những người hành hương thường đi vòng quanh các địa điểm, dâng hoa, hương và đèn, và lễ lạy.

 Phật Giáo Mahayana có nhiều phương pháp thiền: chánh niệm về hơi thở; chánh niệm về sự không hấp dẫn của cơ thể; lòng từ bi; quán chiếu về duyên khởi; và chánh niệm về Đức Phật.Trong Du Già Sư Địa Luận (Yogācārabhūmi-Śāstra biên soạn vào khoảng thế kỷ thứ 4), là chuyên luận toàn diện nhất của Ấn Độ về thực hành Đại Thừa, bao gồm bốn thiền, các loại samādhi khác nhau, sự phát triển của tuệ giác (vipaśyanā) và sự an tịnh (śamatha), bốn nền tảng của chánh niệm (smṛtyupasthāna), năm chướng ngại (nivaraṇa), và các thiền Phật giáo cổ điển như quán chiếu về sự không hấp dẫn, vô thường (anitya), đau khổ (duḥkha) và quán chiếu về cái chết (maraṇasaṃjñā).

 Các tác phẩm khác của trường phái Du-già, như A-Tì-Đạt-Ma Tập Luận (Abhidharmasamuccaya) của Vô Trước (Asaṅga)và Trung Quán Luận (Madhyāntavibhāga-bhāsya) của Thế Thân (Vasubandhu) cũng luân về thiền chánh niệm, smṛtyupasthāna, 37 cánh giác ngộ và samadhi.

 Thiền này được dạy trong nhiều kinh điển Đại Thừa như kinh Tịnh Độ, kinh Akṣobhya-vyūha và kinh Ban Chu Tam Muội (般舟三昧) Pratyutpanna Samādhi. Kinh Pratyutpanna nêu rằng thông qua chánh niệm về thiền định của Đức Phật, người ta có thể gặp được Đức Phật này. Khi đi, ngồi, đứng hoặc ngủ, nhớ đến Đức Phật như mặt trăng, sẽ luôn ở trong sự hiện diện của Đức Phật và sẽ đạt được cõi niết bàn rộng lớn.

 Phật Giáo Tịnh Độ chú trọng thực hành trì tụng danh hiệu của Đức Phật, dẫn đến sự tái sinh ở Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà.

 Phật Giáo Mahayana Đông Á có nhiều phương pháp môn: thiền Thiền Tông (Zen), thiền công án sau truyền qua Nhật Bản phát triển thành phương pháp shikantaza. Phật Giáo Ấn Độ-Tây Tạng cũng có nhiều phương pháp thiền: tonglen (“gửi và nhận”), lojong (“luyện tâm”) và samatha-vipasyana.

 Tư tưởng Phật Giáo Mahayana như nghiệp và tái sinh, vô ngã, tính không, duyên khởi và Tứ Diệu Đế được lưu lại trong kinh A-hàm. Những điều này tương ứng với các bộ Nikāya của trường phái Theravāda.

 Trong Phật giáo Mahāyāna, các kinh Mahāyāna đầu tiên được viết vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước CN hoặc thế kỷ thứ 1 sau CN như Kinh Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra, Kinh Pháp Hoa, Kinh Tịnh Độ, Kinh Vimalakirti, Kinh Ánh Sáng Vàng, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Sandhinirmocana và kinh Tathāgatagarbha.

 Logic Phật Giáo của Trần Na (Dignaga) là tác phẩm về nhận thức luận. Ông đã biên soạn Pramānasamuccaya, Dharmakirti đã viết Pramānavārttikā.

 Giải Thâm Mật Kinh (解深密經 -Saṃdhinirmocana-sūtra), là một bộ kinh quan trọng trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là trong tông Duy Thức (唯識宗). Kinh này được xem là một trong những bộ kinh căn bản của Duy Thức Tông, cùng với kinh Nhập Lăng-già.

 Theo Giải Thâm Mật Kinh (Saṃdhinirmocana Sūtra) Phật giáo có ba lần chuyển Pháp luân.

 Đầu tiên Đức Phật đã giảng dạy Tứ Diệu Đế tại Varanasi cho Thanh văn (śravaka) Dharmacakra Pravartana Sūtra.

 Thứ hai, Đức Phật đã giảng dạy giáo lý Đại Thừa cho các vị Bồ Tát, dạy rằng tất cả các hiện tượng đều không có bản chất, không sinh, không diệt, ban đầu là tĩnh lặng và về cơ bản là chấm dứt, theo trường phái Trung Quán (Mādhyamaka) của Long Thọ (Nāgārjuna).

 Thứ ba, Đức Phật đã giảng dạy những giáo lý tương tự như lần chuyển hóa thứ hai, nhưng dành cho tất cả mọi người trong ba thừa, bao gồm tất cả các vị Thanh Văn (śravaka), Duyên Giác (pratyekabuddha) và Bồ Tát (bodhisattva). Giải Thâm Mật Kinh (Saṃdhinirmocana Sūtra) xuất hiện thế kỷ thứ 1 hoặc thứ 2 theo trường phái Du-già hành tông của Vô Trước và Thế Thân.

 Một số truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng coi giáo lý của Phật Giáo Bí Truyền và Kim Cương Thừa là vòng chuyển thứ ba của Bánh Xe Pháp. Trường phái Gelugpa coi vòng chuyển thứ hai là giáo lý cao nhất, vì cách diễn giải đặc biệt của họ về học thuyết Du-già hành tông. Giáo lý Phật Tính thường được đưa vào vòng chuyển thứ ba của bánh xe.

 Tác phẩm quan trọng của triết học Đại thừa là Trung Luận của Long Thọ (Mūlamadhyamakakārikā -Nāgārjuna), đề cập đến kinh Ca Chiên Diên (Katyāyana Sūtra). Long Thọ (Nāgārjuna) hệ thống hóa trường phái Mādhyamaka của triết học Đại Thừa.

 Du Già Sư Địa luận (Yogācāra) trường phái Đại thừa nổi tiếng khác có biện chứng với trường phái Trung Quán, đã đưa ra ý nghĩa đặc biệt cho Tiểu Luận về Tánh Không. Tư tưởng Abhidharma-samuccaya của trường phái Du Già Sư Địa luận (Yogācāra) gần gũi tư tưởng của Pali Nikayas hơn là của Abhidhamma của Theravadin.

Cali July 9. 2025
Thầy Nẫu

(Nguồn: Trang Facebook Thầy Nguyên Nguyệnpy)

Tượng Phật và Bồ Tát tại di tích văn hóa thế giới Tượng Khắc Đá Đại Túc nằm ở huyện Đại Túc, thành phố Trùng Khánh, Trung Hoa. Các tượng bắt đầu được khắc từ cuối thế kỷ thứ 7, và tổng cộng hơn 50,000 pho tượng được chạm khắc ở hơn 40 địa điểm thuộc huyện Đại Túc, phần lớn do ảnh hưởng của Phật Giáo, Khổng Giáo và Lão Giáo. (Photo: He Yujun/ Dreamstime.com)

Discover more from Tinh Tấn Magazine

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *