Bài TỲ KHEO NI HIỀN NGHĨA
Một người bạn đồng tu giữa đường gãy gánh, chẳng bao lâu sau đem về trao cho cô một hài nhi chưa tròn một tuổi. Một thời gian sau lại có mấy gia đình trong thôn sanh con bị tật quyền và tâm thần cũng đem tới trao cho cô để con được nương nhờ cửa Phật. Từ đó với danh phận là một sư cô, cô Thủy pháp danh Ngọc Lạc đã bắt đầu vai trò của một người mẹ, nhìn những đứa con thơ, đứa khùng, đứa tỉnh, đứa hoàn hảo, đứa tật quyền mà cô nghẹn ngào, cô thương lắm, các con đứa nào cũng là hài nhi của Phật.
Long Phước Điền lúc ấy còn là một tịnh thất, tuy gọi là tịnh thất nhưng nó chỉ là một mái nhà tranh nhỏ trên một cánh đồng rộng bảy mẫu ta. Đây là một trong những nơi sản xuất lúa gạo của Tổ Đình Quan Âm Tu Viện. Từ những năm đất nước còn trong chiến tranh, Quan Âm Tu Viện tọa lạc ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là nơi tiếp nối Tổ Đình Linh Sơn ở núi Dinh, Bà Rịa – Vũng Tàu cưu mang và nuôi dưỡng hơn 200 em cô nhi và người già neo đơn.
Mỗi năm đến ngày mùa, sư bà Huệ Giác đều cử người ở Quan Âm Tu Viện về cùng cô chăm lo nông thiền. Riêng sư cô Ngọc Lạc, mọi người thường gọi cô bằng một cái tên thân quen là Thủy Simon, được Sư Bà cử về ở hẳn để chăm lo ruộng đồng và quản lý việc sản xuất lúa gạo mỗi năm. Người đến rồi lại đi, hết nhóm này đến nhóm khác, còn cô thì cứ âm thầm lặng lẽ gắn bó với nơi đây không rời đi đâu.
Chân lấm tay bùn với lúa mạ ruộng đồng, nay có thêm các con nhận nuôi, nhọc nhằn lại còn nhọc nhằn hơn, lúc nào cũng thấy cô tất bật với công việc. Buổi sáng sau khi cho các con ăn uống xong xuôi, cô đặt hết chúng nó nằm một dọc trên chiếc dường đã được chắn thành cẩn thận, để vào cho mấy thứ đồ chơi rồi cô ra ruộng làm, canh đến giờ lại chạy vào cho uống sữa.
Hoàng hôn buông xuống, ông mặt trời bắt đầu thấp dần sau đỉnh núi, dưới mái nhà tranh, bên bếp lửa hồng cô Thủy Simon bắt đầu nấu từng ấm nước sôi để pha bột, pha sữa cho các con và hòa nước ấm tắm cho từng đứa một. Có khi chúng nó ngoan không khóc, cũng có khi khóc thét lên làm cô luýnh quýnh, cô dỗ dành rồi cô nghiêm nghị, tụi nó thấy cô nghiêm từ từ nín thinh.
Khi đêm về trong mái nhà lung linh mờ ảo ngọn đèn dầu, các con đã ngủ say, cô ngồi đó nhìn các con, tay lần hạt chuỗi, bên vách nhà có treo hình mẹ Quan Âm, cô nhìn lên hình mẹ, miệng lẩm bẩm “xin Mẹ hãy phù hộ cho con trở thành chỗ nương tựa vững chắc cho các hài nhi của mẹ giữa cuộc đời này.” Bên ngoài trời tối mịt mù, tiếng dế, tiếng ễnh ương trên đồng kêu suốt canh thâu.
Bình minh lên rồi hoàng hôn đến, cứ như thế lặp đi lặp lại đã mấy mùa xuân. Các con cô bây giờ đã đến tuổi đi học, thằng Hiền, thằng Nguyên vào học lớp một. Trường học ở xa nên sáng nào cô cũng phải dạy sớm, tụng kinh xong là phải lo cơm nước cho các con ăn đi học. Trên chiếc xe đạp cũ, cô Thủy Simon mỗi ngày đều đạp cót két thồ hai thằng nhỏ đến trường. Tụi nhỏ ngồi sau xe, trong đôi mắt tràn đầy niềm vui nhìn bầu trời cao rộng bao la, cỏ cây bên đường cũng rung rinh như muốn đón chào tụi nó hay là chào một người mẹ… không tên.
Thời gian cứ thế trôi qua, các con mỗi ngày một đến đông hơn, đứa nào cũng ở tuổi đi học, tiền học phí mỗi năm, sách vỡ, bút viết và cả đồ đồng phục cho từng đứa bao giờ cũng là nỗi lo của cô Thủy mỗi khi vào năm học mới. Cô bắt đầu lấy ra một cái hộp, cả gia tài cô chỉ có cái hộp này là quý nhất, mở hộp ra bên trong có một gói nhỏ được gói ghém rất cẩn thận, bên trong gói nhỏ ấy chính là những hạt giống dưa chuột tròn núc, xinh xắn. Nghe kể rằng: lúc tôn sư còn sanh tiền đã đưa cho cô gói hạt giống này và dặn “Sau này con trồng nó để nuôi bầy con của con.”
Vậy là từng dàn dưa chuột theo đôi bàn tay cần cù, chai sạm của cô thủy được dựng lên. Từng hạt giống gieo xuống là từng gọt mồ hôi trên trán cô chảy xuống cằm, rơi xuống đất thấm vào luống dưa, hạt nãy mần vươn mình lớn nhanh, ra hoa, kết trái, trái sum xuê, trái nhiều lắm, nhiều đến mức “mờ cả mắt”. Chẳng có điều kiện phân tro gì bao nhiêu vậy mà cây nào cây nấy đều rất xanh tươi, hoa trái trĩu cành, trái nhiều mà không có èo ọt đâu nha, đúng với tên gọi “dưa chuột”, trái nào cũng ú như con chuột đồng. không có gì làm cho mấy đứa nhỏ thích thú bằng cầm giỏ đi hái dưa, thích ơi… là thích…
Trồng dưa rồi đến trồng thêm khoai lang và ủ nấm. Cứ như thế hạt lúa trên đồng, trái dưa trên dàn, củ khoai dưới đất, tai nấm trong rơm đã giúp cô Thủy Simon nuôi các con học hành khôn lớn.
Đến mùa gieo mạ hay mùa gặt lúa thì tịnh thất trở nên rộn ràng hơn, quý sư tại Tổ Đình Linh Sơn và Quan Âm Tu Viện tập trung về để lo việc đồng án. Chú Huy bây giờ đã lớn, chú biết quán xuyến công việc trong ngoài phụ giúp cho má Thủy đỡ nhọc nhằn. Chú hăng hái ra đồng kéo ống nước để tưới vào những thửa rộng vừa làm xong cỏ để cấy mạ non.
Thấm thoát cũng đến lúc các con có đứa vào đại học, chú Nguyên, chú Hiền rồi đến chú Huy, bé Hoàng, Mỹ Loan… học đại học thì không còn ở chùa với cô được nữa, đứa nào cũng phải lên trường Biên Hòa hoặc xuống trường Sài Gòn, ở nhà trọ cuối tuần mới về một lần. Các con đi học xa cô lo lắm, không có thời kinh nào là cô không cầu nguyện cho chúng nó được bình an, học hành thành đạt, để mai này có được sự nghiệp vững vàng lo được cho cuộc sống của mình và trở thành người có ích cho xã hội.
Các anh chị lớn đều đi học xa, công việc ở chùa mấy em nhỏ học cấp hai cũng biết đảm đang giúp cho cô Thủy thay thế anh chị lớn ở xa. Bé Phương Linh đi học về là canh giờ phụ cô Thủy cho mấy anh chị khùng ăn, lựa sẵn quần áo để cô Thủy tắm cho họ, sau khi xong công việc thì lên chánh điện tụng kinh. Thằng Tú học về thì lo phụ chị Duyên cho các em nhỏ ăn, rồi tắm cho tụi nó, tụi nó cả thảy 25 đứa đều học chồi, mầm, lá. Chăm các em thì mệt lắm nhưng bao giờ nó cũng thấy vui vì nó được làm một ông anh chính hiệu, nó thương các em lắm, giống như cô Thủy thương tụi nó vậy, nó cũng bắt chước cô Thủy quan tâm lo lắng cho mấy em, rồi lâu lâu cũng tỏ ra nghiêm nghị dạy bảo mấy em, thấy mấy em đứng khoanh tay, dạ, vâng nghe lời, nó càng ra vẻ người lớn hơn.
Bé Duyên cũng được cô Thủy nuôi từ nhỏ cùng lớp với bé Hoàng, Mỹ Loan. Nhưng học hết lớp 9 thì Duyên nhất định không chịu đi học nữa, cô Thủy phạt, la rầy thì cũng học được mấy bữa là đòi nghỉ học ở nhà phụ cô, biết không thể ép con đi học được nữa nên cô Thủy đành phải chiều ý em. Có lẽ Duyên thấy cô Thủy thức khuya dậy sớm, tất bật vất vả quá nên em nghỉ học ở nhà để có thể giúp được cô phần nào, thương nhất là khi nhìn thấy Duyên ngồi tỷ mỷ khâu lại những chiếc áo rách của các em thơ.
Cô Thủy xuất gia theo Hòa Thượng Thiện Phước và Sư Bà Huệ Giác từ năm 19 tuổi, tiếp tục theo hạnh nguyện của Đức Tôn Sư và Đức Thầy Huệ Giác nuôi dạy các cháu cô nhi, các cháu có hoàn cảnh khó khăn khôn lớn nên người, thực hiện công hạnh Bồ Tát đạo cứu khổ ban vui khắp quần sanh. Cô không ép một ai xuất gia làm đệ tử của cô, cô nói “tu hành phải có căn duyên, đứa nào có duyên thì tự nó phát tâm, không có căn duyên ép cũng tu không được”, vậy nên nhiều anh chị đến tuổi trưởng thành muốn ở đời cô Thủy đều đứng ra yên bề gia thất cho họ. Lớp lớn đã đi theo đời, tuy cô không ép ai xuất gia, nhưng trong lòng luôn mang một nỗi niềm sâu kín. Cô muốn các con cô có người xuất gia cả nam, cả nữ để có thể tiếp tục lo cho đám em nhỏ sau này.
Cuối cùng thì trời không phụ lòng người, thằng con mà cô kỳ vọng nhất – chú Huy, đã về bên cô và nói, “Cô Thủy ơi! Con muốn xuất gia.”
Nghe chú nói, cô vừa mừng vừa lo, im lặng một hồi cô nói, “Thôi, con xuất gia giờ này chưa được đâu, tốt nghiệp đại học rồi thì đi làm kiếm tiền, xong rồi thích cô nào thì cưới đi.” Cô cười…
“Không ạ, con nói nghiêm túc mà, con sẽ xuất gia…”
Thấy chú Huy nghiêm túc, muốn xuất gia thật, cô mừng trong bụng mà không nói ra, vậy là mấy đứa nhỏ sau này cô bớt lo đi phần nào rồi.
Từ năm học lớp năm chú Huy đã được cô Thủy đem về cưu mang lo lắng, tình thương của cô đối với chú chẳng khác gì một người mẹ. Từ nhỏ vốn đã có nhiều thiện căn với Phật pháp, cách sống và nhận thức của chú cũng rất khác với những đứa trẻ khác. Trong mấy đứa con cô Thủy nuôi, cô Thủy đặt hy vọng nhiều nhất ở chú. Riêng chú, từ ngày hai anh lớn Nguyên và Hiền lần lượt đi lập gia đình, thì chú trở thành như người anh cả mà đằng sau là một bầy em nhỏ hơn năm chục đứa. Thương cô Thủy, thương các em, lúc nào chú cũng đặt đôi gánh trên vai mình. Xuất gia làm Thầy rồi, lại còn thêm nhiều trách nhiệm hơn, nhưng con đường của chú đi bây giờ đã thênh thang hơn lúc đầu…
Một buổi chiều gió mát, tôi về lại chùa Long Phước Điền, đây là ngôi nhà thứ hai của tôi sau Tổ Đình Quan Âm Tu Viện, ngôi chùa này tự bao giờ đã cho tôi cái cảm giác bình an của một gia đình, các em nhỏ thương mến lúc nào cũng vây quanh tôi như một bầy chim non ríu rít thật đáng yêu. Cô Thủy – người mà lần đầu tiên tôi gặp đã khiến cho tôi không ít ngỡ ngàng, cô bao giờ cũng vậy, cái quần nâu ống cao ống thấp, chiếc áo túi vàng tay cụt đã xém cháy dưới lai, bạc màu trên vai.
Chưa đầy sáu mươi mà nhìn cô đã có rất nhiều nếp nhăn, làn da ngâm đen sạm màu nắng mưa, nhưng đôi mắt hiền thì lại sáng ngời tình thương yêu, lúc nào cũng thấy cô tất bật công việc, lần đầu gặp cô, hiếm có ai mà đoán được đó là vị trụ trì. Cô kể tôi nghe rất nhiều chuyện, cho tôi nhiều bài học quý, nhưng tôi nhớ nhất có lần cô tâm sự cùng tôi, “Cô lớn tuổi rồi, cũng sẽ về với Phật, cô không lo gì hết, mấy đứa tỉnh thì nó đều có thể tự lo cho bản thân nó được, cô chỉ lo cho mấy đứa khùng, không biết người sau có thương và lo cho tụi nó như cô không.”
Lời cô nói làm tôi xúc động, tôi không kèm được phải dấu mặt đi nơi khác. Cô Thủy ơi! Lời nói ấy tuy rất bình thường giản dị, nhưng nó chỉ phát ra từ những người có trái tim Bồ Tát, như Cô.
(Truyện dự thi Phật Pháp Ứng Dụng do Chùa Hương Sen, Perris, California tổ chức năm 2022. Tác giả sống sinh tại Quảng Bình, xuất gia năm 2005 tại Quan Âm Tu Viện, Bửu Hòa, Biên Hòa, Đồng Nai. Bổn sư là cố Ni Trưởng Huệ Giác. Khi viết truyện này thì sư cô Thích Nữ Hiền Nghĩa đang học phó tiến sĩ tại trường Gautam Buddha University, Ấn Độ.)

Discover more from Tinh Tấn Magazine
Subscribe to get the latest posts sent to your email.