Bài PHAN PHƯƠNG ANH
Tôi đến với đạo Phật từ bao giờ? Có lẽ từ những ngày tháng cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, tháng 4/1975. Tôi nhớ những ngày ấy, trước viễn ảnh đen tối của đất nước, mọi người đều hoang mang, lo sợ, không biết mai đây chuyện gì sẽ xảy ra với gia đình, với cả xã hội miền Nam. Tôi không nhớ rõ lúc đó do đâu mà tôi có được quyển sách ‘Đức Phật và Phật Pháp’ do Phạm Kim Khánh dịch. Tôi đọc quyển sách ấy để bớt đi sự sợ hãi trước một bối cảnh xã hội đang rối loạn, tan rã. Giáo lý cao siêu của Ngài thật thâm sâu mà điều mà tôi lãnh hội được chỉ bằng hạt cát. Nhưng dù sao điều ấy cũng giúp tôi bớt lo sợ phần nào? Tôi tự nhủ, thôi thì mọi chuyện xảy ra trên đời này đều do nghiệp quả, dù là cộng nghiệp của một quốc gia hay biệt nghiệp của từng cá nhân.
Thế rồi định mệnh của miền Nam Việt Nam cũng diễn ra. Trong chúng ta ai sống ở miền Nam lúc ấy, có lẽ cũng nghĩ rằng đây là biến cố đau thương nhất mà đời mình phải trải nghiệm. Rồi sau đó, gia đình chúng tôi gồm cha mẹ và bảy anh chị em trong phút cuối cùng, chiều 29 tháng Tư, được một người con của bạn của cha tôi dẫn xuống tàu HQ3 của Hải Quân VN, đậu tại bến Bạch Đằng, ra khơi trốn chạy được chế độ Cộng Sản. Tôi thầm cám ơn Trời, Phật đã độ cho gia đình tôi đến được bến bờ tự do một cách an lành.
Thế rồi bắt đầu cuộc sống nơi xứ người với bao nỗi khó khăn, nhưng rồi cũng được ổn định, mặc dù cuộc đời con người ai thì cũng có lúc hạnh phúc, có lúc khổ đau, thất vọng nhưng để có được sự xoa dịu và vượt qua được những khó khăn, bất trắc ấy tôi vẫn tìm đến đạo Phật. Tôi tìm được sự giải thích rất hợp lý về Nhân Quả, Luân Hồi, gieo nhân nào thì hái quả nấy. Đó là một nguyên lý tự nhiên của vũ trụ mà Đức Phật đã từng dạy chúng sinh. Luật vũ trụ này áp dụng cho tất cả mọi người, không ai tránh khỏi, nếu không nhận quả do những việc mình làm ngay trong kiếp này thì cũng trong những kiếp khác mà thôi.
Trong cuộc sống gia đình, đôi khi có những xung đột, bất hòa có thể đi đến đổ vỡ, để có thể học được cách kiềm chế những cơn nóng giận, lo buồn đó tôi tìm đến để tu tập trong những khóa tu như Hiện Pháp Lạc Trú -tập theo dõi hơi thở, đi thiền hành trong Chánh Niệm- hãy tập sống trong giây phút hiện tại vì dĩ vãng đã không còn và tương lai thì chưa đến. Tôi tập loại bỏ những sầu khổ vì những điều không may trong quá khứ, và bớt suy nghĩ về một tương lai còn xa. Nhờ học được những điều đó, tôi có thể áp dụng cho bản thân và giúp cho các con tôi khắc phục được những khó khăn, khúc mắc trong cuộc đời, để chúng có thể hoàn thành việc học và trưởng thành hơn để có thể tự giúp đỡ cho bản thân cũng như là đóng góp vào việc phụng sự cho xã hội.
Tôi cũng rất thích đọc những sách báo về Phật giáo. Giáo lý của Đức Phật thì thâm diệu, vô biên, mà tôi là một Phật tử mới chỉ học được vài điều cơ bản để áp dụng vào đời sống.
Đức Phật từng dạy về Tứ Diệu Đế, đó là -sinh, lão, bệnh, tử- mà con người ai cũng phải đi qua. Ngài dạy cuộc đời này mọi sự đều Vô Thường. Ta ra đời với hai bàn tay không, và cũng sẽ ra khỏi cuộc đời này với hai tay không như thế! Có nghĩa là bao tiền tài, danh vọng mà ta cố công gặt hái bằng bất cứ cách nào thì cũng phải để lại thế gian. Tôi rất thích đọc câu chuyện về Đại Đế Alexander của Hy Lạp (356-323 TCN). Một vị vua anh hùng của lịch sử Hy Lạp. Ngài đem quân đi chinh phục từ Ba Tư đến Ai Cập rồi Ấn Độ, chiến thắng vẻ vang khắp nơi. Nhưng đến khi lâm bệnh nặng, trước khi qua đời ngài căn dặn như sau:
“Khi ta chết, quan tài của ta phải do những y sĩ giỏi nhất khiêng đi, vì y thuật không thể chiến thắng cái chết. Vàng bạc trong kho phải mang lót trên đường di quan từ nội cung ra triều đình, vì khi chết không ai mang bất cứ của cải gì theo được. Quan tài của ta phải mở hai bên để hai cánh tay ta có thể dang ra ngoài, vì khi sinh ra ta chẳng có gì và khi ta chết cũng ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.”
Đại Đế Alexander khi đem quân qua tới Ấn Độ, thì dù chiến thắng nhưng chẳng thu được vàng bạc, đất đai gì vì xứ sở ấy nghèo nàn quá. Thế nhưng sau chuyến đi ấy, ngài thay đổi quan niệm về cuộc đời, vì ngài được tiếp xúc với những cao nhân, học giả, những người này ăn mặc giản dị, đầu trọc (có lẽ là tu sĩ Phật giáo?), đó cũng là những người thông thái nhất của xứ ấy. Sau đó Đại Đế Alexander đã nói, “Trên đời này có những thứ còn quý hơn vàng bạc châu báu, đất đai nữa. Ta đã học được những kiến thức mới lạ, khác hẳn những điều ta học được từ Aristotle. Chúng ta chỉ biết về thân xác con người mà không biết gì về tâm thức con người. Chúng ta biết về thế giới này nhưng không biết về thế giới khác. Chúng ta biết về thần linh nhưng không biết gì về các định luật vũ trụ. Còn biết bao thứ nữa mà chúng ta cần phải học.”*
Tôi đem thí dụ về Đại Đế Alexander để chúng ta cùng chiêm nghiệm lời Đức Phật dạy về luật Vô Thường -luật của Vũ Trụ- đã thuyết phục được vị đại đế anh hùng của xứ Hy Lạp xa xưa.
Chúng ta bàn xa hơn về Nghiệp Quả trong đạo Phật. Có khi nào chúng ta tự hỏi tại sao có sự quá khác biệt giữa người này với người khi họ sinh ra đời? Có người đẹp, có người xấu, có người sinh ra trong gia đình giàu sang, có người sinh ra trong gia đình nghèo hèn. Đây có phải là do nghiệp quả khác biệt của từng người mang theo từ nhiều kiếp trước. Phải chăng những chủng tử của nghiệp lực chứa trong A Lợi Gia Thức đã đi theo mỗi cá nhân từ nhiều kiếp và tạo nên tính cách và đời sống cá biệt của mỗi con người chúng ta. Theo thiển ý của tôi đây là một cách giải thích hợp lý nhất mà tôi học được.
Một giáo lý căn bản khác mà Đức Phật dạy là Tứ Vô Lượng Tâm (Brahmavihàra) tức là Từ (Maitra), Bi (Karunà), Hỷ (Mudità), Xả (Upekasà). Làm người ta nên học hạnh nhân từ, độ lượng trong khi đối xử, tiếp xúc với người xung quanh và ngay cả với loài cầm thú nữa. Học hạnh bao dung, tha thứ lỗi lầm cho người hay cho chính bản thân mình. Nhưng cũng phải biết tự kiềm chế hay nghiêm khắc với chính mình để không dễ sa ngã hay lầm đường, lạc lối. Tôi cũng học được là chúng ta luôn luôn nên tu tập để ngày một hòan thiện hơn.
Trong cuộc sống hàng ngày, khi bị nhiều áp lực, tôi học cách thư giãn bằng phương pháp theo dõi hơi thở của thiền sư Nhất Hạnh:
“Thở vào, thở ra, là hoa tươi mát, là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu, không gian thênh thang.”
Nhờ đó tôi lấy lại được bình tĩnh để tìm được cách giải quyết vấn đề một cách êm đẹp hơn.
Thêm vào đó, khi trong gia đình hay trong xã hội, chúng ta gặp phải những chuyện khổ đau, nếu để lâu dần chúng sẽ tạo thành nội kết trong tâm. Tôi cũng học cách làm sao để chuyển hóa những nội kết này? Tôi thực tập để nhận diện và loại bỏ những cản trở trong nội tâm của chính mình. Nhờ đó tôi có thể chuyển hóa những khúc mắc cho chính mình để có thể sống một cách bình an hơn.
Giáo lý quan trọng khác trong đạo Phật là Thập Nhị Nhân Duyên và Bát Chánh Đạo. Tôi xin phép được ghi lại một vài điều trong bài giảng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh rất rõ ràng và sâu sắc như sau:
Nhân duyên hay duyên khởi cũng là Vô Thường, Vô Ngã. Xưa kia Phật dạy rất đơn giản như cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh và cái này diệt thì cái kia diệt.
Có bốn loại duyên khởi :
Duyên thứ nhất là: Nhân duyên (nhân là hạt giống). Phật nói trong chúng ta ai cũng có hạt giống của giác ngộ, nhưng nó còn bị giới hạn, nên chưa phát triển được vì thế ta vẫn chìm đắm trong trầm luân, đau khổ. Thêm vào đó chúng ta ai cũng có hạt giống của sự tuyệt vọng, nếu cứ tưới tẩm nó sẽ lớn mạnh thì sự khổ đau sẽ lớn theo.
Duyên thứ hai là: Tăng thường duyên có hai loại là thuận duyên và nghịch duyên.
Duyên thứ ba là: Thứ đệ duyên tức là sự liên tục, không gián đoạn.
Duyên thứ tư là: Sở duyên tức là đối tượng. Ví dụ: ta có hạt giống của sự tức giận, nhưng giận ai? Phải có đối tượng của sự giận đó.
Tất cả mọi hiện tượng đều có bốn duyên này. Đó là bốn nhân duyên căn bản.
Tuy nhiên trong Kinh có khi Phật nói có tới 12 nhân duyên như sau:
Vô Minh – Hành – Thức – Danh Sắc – Lục Nhập – Xúc – Thọ – Ái – Thủ Hữu – Sinh – Lão – Tử.
Lý thuyết này để giải thích sự vận hành của Luân Hồi trong cõi nhân sinh. Trong đời sống hàng ngày có vô minh đồng thời cũng có minh. Phật dạy “vô minh diệt thì minh sinh.” Nếu hạt giống giác ngộ (minh) được tưới tẩm đúng cách, chúng ta sẽ thấy được Bát Chánh Đạo, Tứ Vô Lượng Tâm, sẽ phát triển được lòng từ bi rộng lớn để độ đời. Đó là trường hợp của các vị tu sĩ có những ước nguyện cao quí, tu để giải thoát, để giúp đời.
Để tóm lược Thiền Sư Thích Nhất Hạnh nói chúng ta học đạo lý 12 nhân duyên không phải để chứng minh cho lý thuyết về luân hồi mà là để ứng dụng vào phương pháp tu tập, chuyển hóa thân tâm, diệt khổ, tạo ra sự vui tuơi, an lạc cho đời sống của mọi người.
Còn về Bát Chánh Đạo thì Thiền sư dạy rằng: Trong Phật giáo Đại Thừa, Phật dạy về bài học này dưới cội bồ đề như sau:
Toàn thể giáo lý đạo Phật đều có thể bao gồm trong Bát chánh đạo có :
1. Chánh kiến: nhìn sự việc cho đúng.
2. Chánh tư duy: dựa vào chân lý sự thực mà suy nghĩ cho đúng.
3. Chánh ngữ: lời nói phải đúng sự thật.
4. Chánh nghiệp: làm việc gì cũng nên là lợi cho người, tốt cho mình.
5. Chánh mạng: sống cho đúng đạo lý làm người.
6. Chánh tinh tấn: tính cách siêng năng, cần mẫn trong mọi việc.
7. Chánh niệm: nên suy xét sự việc nếu có lợi thì nghe, hại thì thôi.
8. Chánh định: tập trung, suy nghĩ cho đúng. Nếu suy nghĩ trong yên lặng thì có thể phát sinh trí tuệ được rồi.
Nhưng làm thế nào để chúng ta đem ứng dụng lời Phật dạy vào đời sống hàng ngày để đựơc sống an lạc hơn, bớt đi nỗi khổ cho chính bản thân và cho người thân, gia đình, bạn bè. .
Trong con người chúng ta có một dòng sông cảm thọ, Phật dạy hãy dùng ánh sáng Chánh niệm để chiếu sáng những cảm thọ nào cần được chăm sóc, trị liệu và chuyển hóa, chẳng hạn như những niềm đau, nỗi khổ của chính mình hay của người thương của mình. Chúng ta phải biết ôm ấp lấy những cảm thọ buồn, vui, khổ đau của chính mình để trị liệu, rồi sau đó sẽ giúp người thân mình vơi đi nỗi đau của họ. Bởi vì có những cảm thọ rất đau đớn, có thể làm ta tê liệt hết ngày này sang ngày khác. Ta phải học cách chăm sóc các cảm thọ quá mạnh này trước khi nó trở thành bão tố.
Chẳng hạn như tôi đã chứng kiến một người mẹ mất cô con gái 17 tuổi, sắp vào đại học chỉ vì lạm dụng ma túy và rượu, bà đã đau khổ và tê liệt trong nhiều tháng. Nhưng nhờ niềm tin tôn giáo, bà đã cố gắng vượt qua nỗi đau này dù tôi chắc rằng bà vẫn còn thương nhớ con mình mãi mãi.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên thực tập quán niệm hơi thở, tuy đơn sơ nhưng kết quả rất là màu nhiệm. Hơi thở nối thân và tâm trở lại ta tìm lại chính mình. Điều này ta không cần tu lâu, chỉ trong chốc lát sau khi theo dõi hơi thở là ta có thể cảm thấy an lạc và nếu ta biết buông bỏ những tri giác sai lầm, những thành kiến để biết sống trong giây phút hiện tại. Trong thời đại của chúng ta, có rất nhiều người bị bệnh tâm thần do quá lo lắng vì đại dịch, vì kinh tế suy thoái, vì môi sinh, khí hậu thay đổi bất thường. Nên chúng ta phải, học phương cách trị liệu của Phật dạy để thư dãn, để an trú trong hiện tại, sống sâu sắc hơn, tập quăng hết những lo sợ của căn bệnh thời đại này. Nếu làm được này là ta đã áp dụng được đạo Phật vào trong đời sống của chúng ta rồi.
Chúng ta học thêm về Chánh Niệm, ánh sáng Chánh Niệm rất quan trọng vì Chánh Niệm có trong tâm ta như một ngọn đèn để chiếu ánh sáng vào bốn lãnh vực:
1. Thân gồm kinh, thân, hành, niệm.
2. Thọ gồm cảm thọ vui, buồn, dễ chịu, không dễ chịu, trung tính không vui cũng không buồn.
3. Tâm hành có 51 loại tâm hành mà dùng chánh niệm soi sáng để nhận diện từng loại.
4. Pháp là đối tượng của tâm hành. Năm uẩn của ta không biệt lập mà nó bao gồm cả chủ thể lẫn đối tượng. Bao gồm cả vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, sao, mây, rừng, sông, núi…
Từ chánh niệm ta có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ. Muốn thành công trong đạo Phật, giúp được nhiều người hơn bằng chánh ngữ ta tìm cách tưới tẩm những hạt giống tốt nơi tha nhân. Giúp họ chuyển hóa khổ đau, nội kết. Chánh nghiệp bao gồm thân nghiệp trong đó có cả 5 giới của đạo Phật. Chánh mạng là ta nên chọn nghề nghiệp chân chính giúp được người mà cũng lợi cho bản thân.
Chánh tinh tấn có bốn loại thực tập:
Thứ nhất: hạt giống xấu nào chưa phát triển thì giữ cho nó đừng phát triển.
Thứ hai: nếu hạt giống xấu đã phát triển thì tìm cách giữ cho nó nằm yên đừng xuất hiện nữa.
Thứ ba: nếu hạt giống tốt thì phải giữ lại.
Thứ tư: tưới tẩm cho hạt giống tốt ngày một lớn thêm.
Nói tóm lại Bát Chánh Đạo là tám sự hành trì chân chính mà Phật đã dạy cho chúng ta cần được học hỏi, không chỉ học lý thuyết thôi mà còn phải học cách ứng dụng những lời dạy sâu sắc ấy vào cuộc sống hàng ngày để giảm được phần nào niềm đau, nỗi khổ trong kiếp nhân sinh này.
Đó là phần nào ý niệm và cách ứng dụng về đạo Phật mà tôi học được, nhưng ngoài ra tôi cũng rất thích đọc những thi ca về Phật giáo. Chẳng hạn, tôi đọc được trong báo Chánh Pháp những câu thơ rất hay của thi sĩ Lý Thừa Nghiệp mà tôi xin mạn phép ghi lại sau đây :
Sáng nghe một bài kinh.
Ngũ uẩn bỗng cựa mình.
Nhang thắp hồng sám hối.
Bụi tàn bay lung linh.
Để chấm dứt bài viết hôm nay, tôi muốn chép lại bài thơ Tiểu Khúc Phật Đản của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ để chúng ta cùng thưởng thức.
Sông Hằng một dải trôi mau,
Vận đời đôi ngã bạc đầu Vương gia.
Tuyết sơn phất ngọn trăng già,
Bóng Người thăm thẳm vượt qua chín tầng.
Cho hay Bồ Tát hậu thân,
Chày kình chưa chuyển tiếng vần đã xa.
Sườn non một bóng Đạo già
Trầm tư năm tháng bên bờ tử sinh.
Nhìn Sao mà ngỏ sự tình:
Ai người Đại Giác cho mình quy y?
Năm chầy đá ngủ lòng khe;
Lưng trời cánh hạc đi về hoàng hôn.
Sông Hằng một dải trôi mau;
Nhìn Sao mà ngỏ sự tình:
Lưng trời cánh hạc đi về hoàng hôn.
…
Thời gian vỗ cánh ngang đầu;
Sinh, già, bịnh, chết, tránh đâu vận cùng.
Khổ đau là khối tình chung,
Ai nâng cõi Thế qua bùn tử sinh?
Tuệ Sỹ, mùa Phật Đản 2549
Irvine Oct/2022.
* Trích trong sách ‘Muôn Kiếp Nhân Sinh’ của nhà văn Nguyên Phong.

Bài dự thi Phật Pháp Ứng Dụng do Chùa Hương Sen, Perris, California tổ chức năm 2022. Năm đó tác giả cho biết bà đã về hưu, sống với chồng tại thành phố Irvine, California, có hai con đã trưởng thành. Bà tốt nghiệp Dược Khoa tại Sài Gòn năm 1971, sang Mỹ năm 1975, hành nghề clinical laboratory scientist, làm việc cho Los Angeles County Public Health.
Discover more from Tinh Tấn Magazine
Subscribe to get the latest posts sent to your email.