Lòng hiếu của sư cô đối với cha già

*Đọc 14 phút*

Bài THÍCH NỮ VẠN HIẾU

Vị Cha già khả kính của lòng con,
Ba tôi chất phác lại thi sĩ,
Chén cơm manh áo qua ngày trần ai,
Nuôi con khôn lớn nên người,
Dạy con đạo lí nghĩa ân trên đời,
Thông Kinh Thánh hiền thửa xưa,
Bốn bề Nam -Bắc Ba đều tinh anh,
Đi ra khí chất phi thường,
Ở nhà gia đình Ba lại trầm ngâm ẩn lòng.

Đối với ai thì tôi không biết, nhưng riêng bản thân tôi hình ảnh người Ba của tôi sẽ mãi mãi là ngọn lửa thiêng liêng sưởi ấm tâm hồn tôi.

Ba tôi là một người đơn giản, tuy là “ông chủ lò bánh mì,” thợ thầy tấp nập, người ở giúp việc, nhưng Ba tôi luôn sống theo đời sống của các vị thiền Sư. Ba tôi thường hay đọc những câu thơ mà từ nhỏ Ba học được ở chùa:

“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, đói đến thì ăn mệt ngủ liền.

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.”

Và ông ngưỡng mộ Trịnh Công Sơn: “Thân xác của anh chỉ là giả tạm, khi anh chết đi thân thể của anh sẽ trở về với cát bụi.” Hay “Khi bạn hát một bản tình ca,là bạn đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi đừng e ngại và hạnh phúc hay dở dang về cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn.”

Ba tôi là một người không được may mắn như bao người khác, khi tôi còn bé tôi đã được nghe Ba kể về cuộc đời lập nghiệp trên hai bàn tay trắng.

“Tháng giêng chín mốt lên xe
Quảng Nam tạm biệt, Tam Kỳ chia tay
Phố Đà một thoảng sớm mai
Phố kia xa cách người thương xa mờ
Đăk lăk đi đến bốn giờ
Nửa thương, nửa nhớ, nửa chờ , nửa mong.
Hải Đà số cũng long đong
Ra đi lập nghiệp đất trời xa xôi.
Xuôi ngược dòng đời
Đi đến Tây Nguyên
Làm nhà 3 vách
Mái tranh chống quách,
Đêm ngủ thấy trời,
Thân phận tả tơi,
Áo quần mất hết,
Cho đến ngày tết,
Không cúng Ông bà
Ở đây quá trớn ,
Gà vịt mất hết
Bối cảnh lung tung, nhưng đành phải chịu.”
(Sáng tác: HẢI ĐÀ -1991)

Không những khổ mà còn éo le hơn khi tôi nghe Má tôi kể, Ba tôi đã mồ côi từ thửa bé, chính vì thế Ba tôi không được cảm nhận tình yêu thương từ tình mẫu tử thiêng liêng cao đẹp. Đó là một điều rất chi là thiệt thòi đối với một kiếp người, trong thơ Ba tôi viết:

“Vốn người lập nghiệp tha hương,
Gởi cho con trẻ mấy lời cố kêu.
Kêu trời, trời ở trên cao,
Kêu đất, chẳng thấu, kêu sao, sao mờ.
Ngồi buồn Ba lại làm thơ
Lời thơ Ba viết mấy lời nói ra.
Quê Ngoại ở tận đường xa,
Bà Nội mất sớm, Ba thời mồ côi.
Anh em ai cũng có nồi,
Bà con dòng họ chẳng nhờ cậy chi.
(Sáng tác: HẢI ĐÀ-1992)

Nhưng ông Trời cũng không bạc đãi con người, ông lấy đi cái này cũng bù đắp cho Ba tôi cái khác. Ba tôi là một người lãng tử, thi sĩ và rất chi là thông minh (vẽ, hát, đàn, điêu khắc, văn, thơ) không thứ gì Ba tôi lại không biết. Cũng nhờ văn hay chữ tốt mà Mẹ tôi đã bước vào cuộc đời của Ba tôi làm người bạn tri kỷ.

“Má con đi bán chợ mai
Ba đi xe đạp bán qua chợ chiều.”

Khi xưa còn bé, tôi là con gái út của Ba. Ba tôi yêu thương tôi lắm, đi đâu Ba cũng vác tôi lên cổ, làm ngựa cho tôi phi. Hay mỗi buổi sáng đi uống cà phê Ba tôi luôn gọi cho tôi một ly sữa nóng. Tôi còn nhớ cái ngày xưa ấy, khi bạn hàng lấy bánh xong xuôi rồi, số còn dư Ba tôi bỏ vào giỏ cà xé, Ba cho tôi leo lên phía trước xe máy rồi hai Cha con đi bon bon vào trong buôn làng để bán cho dân tộc Ê đê. Nói thì bán, nhưng một giỏ cà xé to có lúc nào Ba đem tiền về đủ đâu. Làng dân tộc vốn dĩ nghèo khổ, Ba tôi vì thương họ nên đem cho hết, rồi họ lại quý Ba họ đem nào đậu, gạo, bắp, nếp, hay những trái cây… có trong vườn tặng cho Ba. Thuở ấy tuy còn bé nhưng tôi vẫn còn nhớ mồn một, những con đường đất đỏ Bazan lầy lội.

“Khi tháng tư mưa gió phủ đầu
Đến tháng tám mưa nhiều ngập lối
Ba khổ cực vẫn đành lặn lội
Đổi gạo về B nấu thành cơm
Dĩa cơm chia Ba sớt hai phần
Ba phần ít Ba đành bóp bụng.
(Sáng tác: HẢI ĐÀ- 1999)

Đôi chân khô ráp mang đôi dép lào Thái, Ba tôi cứ chèo chống mà không để tôi lấm một tí bùn đất nào cả, thậm chí Ba còn nói: “Con ngồi yên đó, đừng lúc lắc.” Tôi cũng nghe lời lắm, ngồi yên cho qua hết đoạn đường lầy lội thế kỷ ấy. Rồi hai cha con tôi lại bon bon trên con ngựa sắt ngày xưa. (Thời xưa ai mà có chiếc xe máy là thuộc hạng giàu có, riêng nhà tôi lại có bốn chiếc, với bản tính yêu thương người làm công nên Ba tôi hết mực tin tưởng, và họ đã lợi dụng sự tin tưởng ấy lại ăn cắp dần dần, cho đến khi chỉ còn một chiếc cuối cùng là chiếc Cup 50).

Kỷ niệm với chiếc Cúp 50 đó cũng là kỷ niệm cuối cùng giữa tôi và Ba, sau đó tôi đã lật qua một trang sử mới. Ngày ấy vào mùa thu lá rụng, Ba tôi lại chở tôi lên Bản đôn thượng ngàn để xem voi đá banh. Lúc đó tôi còn nhớ Ba tôi không có nhiều tiền trong túi, vì lúc đó Ba chỉ nghĩ rằng vào buôn gần gần chơi thôi. Tuy có ít tiền nhưng Ba lúc nào cũng sợ tôi đói Ba hỏi: “Con ăn gì?” Lúc ấy tôi còn nhớ tôi rất thích ăn nhãn và thế là Ba tôi mua cho tôi một bì nhãn thật to, Ba còn cho tiền tôi đi cưỡi voi, đi qua cầu treo ăn những món ăn dân dã và mua mía cho voi ăn. Nhưng một điều kỳ lạ Ba tôi không ăn, tôi chẳng hiểu vì sao, tôi chỉ nghĩ rằng vì Ba là Ba nên Ba không biết đói thôi. Đến lúc xế chiều về đến nhà tôi thấy Ba tôi ăn liền một lúc hai tô cơm. Lúc ấy tôi khoảng tầm 6 tuổi cái đầu óc cạn cạn cợt chẳng hiểu gì nhiều, nhưng tôi chỉ biết rằng tôi đã và đang lớn dần theo sự yêu thương thầm kín của Ba.

Tôi còn nhớ hồi bé tôi thích cùng mấy bạn dân tộc trong buôn đi chơi, lúc nào nó cũng báu mặt tôi cả, mỗi lần về đến nhà thấy cái mặt đầy máu là Ba tôi lại chửi người ta. Có một lần tôi đi chơi với mấy đứa trẻ trong xóm, bị cô hàng xóm phát hiện vì vào rẫy chơi nấu cơm đốt cháy cây cà phê của cô ấy, cô thấy tôi vì tôi là đứa trẻ cuối cùng còn sót lại, cô ấy rượt tôi chạy. Lúc đó Ba còn làm bánh mì, tôi chạy vào nói: “Ba ơi! cô Vui đánh con.”

Không cần biết đúng sai Ba tôi ra và nói: “Không ai được đụng đến con Hải Đà nghe chưa.” Khi ấy tôi trốn dưới bàn thờ ông nội, tôi ló đầu ra và cười một cách khoái chí.

Rồi một ngày nọ tôi cùng mấy đứa trẻ trong xóm đi chùa chơi và tôi ở luôn trên đó, năm ấy tôi 10 tuổi. Năn nỉ mãi thì xin Mẹ dấu Ba cho đi xuất gia theo Sư học đạo. Khi biết được thì Ba rất buồn mà có nói tiếng nào đâu, sau lâu lâu tức giận vì nhớ con, Ba nói: “Đã quyết định thì đi luôn đi, Ba coi như không có con.” Tôi biết đó chỉ là lời nói khi nhớ con, khi nỗi nhớ dâng trào chứ lòng Ba đau lắm chứ, buồn lắm chứ.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, nay tôi cũng đã trở thành vị Sư Cô, vì tuổi trẻ là nhựa sống là nguồn tri thức, là những mầm móng của Phật pháp nên tôi chỉ lo học và tu. Nghe được tin tôi đi du học nước ngoài, Ba lại mừng khôn kể, cứ khoe khoang làng trên lối xóm, cho đến lúc này Ba tôi luôn tự hào về tôi, tự hào khi có người con đi xuất gia. Ba tôi luôn quan niệm rằng “nhà có phước, mới có người đi xuất gia.”

 Hành giả xuất gia như chúng tôi, thường sau tết và hè mới về thăm Ba Mẹ một lần, thăm chút rồi lại đi. Vì công việc của chúng tôi là phục vụ Đạo pháp, cho nhân sinh và loài người, không riêng tư, không thân thích, người xuất gia thì bốn phương đều là nhà, nên việc thăm Ba Mẹ cũng trong tích tắc. Có một hôm tôi tặng cho Ba cái đồng hồ, cái tôi đang đeo trên tay, vốn bản tính không ưa mua sắm, không biết quà cáp, tôi hỏi Ba: “Ba thích không con tặng Ba nhé!

Ba trả lời: “Con đeo đi, Ba già rồi đeo làm gì.”

Miệng nói và tay tôi tháo liền, tôi đeo vào cho Ba tôi. Đeo được cái đồng hồ rồi, Ba tôi đâu chịu cởi, đi đâu cũng khoe con gái tôi nó tặng cho tôi cái đồng hồ ngoại; Ba vui lắm. Nhiều khi nghĩ lại, chỉ một hành động nhỏ nhoi của mình mà là niềm hỷ lạc của một đời người.

Rồi một ngày bình minh vừa hé mở, tôi đang rảo bước thiền hành trong khu rừng nguyên sinh bên Thái thì nhận được cuộc điện thoại. “Cô ơi! Ba tự nhiên đau đầu, chụp MR thì bác sĩ nói bị u não ác tính.” Nghe cái tin như sét đánh, tôi vội vàng đặt vé bay về liền.

Khi tôi bước vào bệnh viện, Ba còn đang ngủ, thay vì thấy thân hình chắc khoẻ thì giờ đây chỉ còn là một thân hình ốm yếu, bị liệt một bên, gầy gầy, teo teo. Đôi mắt sâu dưới hàng chân mày, hai gò má cao cao lại dần nổi lên trên khuôn mặt sạm đen vì sương gió. Tuy vậy, bệnh tật vẫn không thể làm mất đi tính cách hiên ngang, đầy nghị lực, tự tin và hết mực yêu thương gia đình của Ba.

Tôi thương Ba nhiều lắm, những ngày trên giường bệnh, Ba lúc nào cũng mong mỏi được về nhà ăn cơm do Mẹ nấu, Ba tôi thương mẹ lắm, nhưng một đời người Ba vẫn không bao giờ mở ra nửa lời đối với mẹ, tình yêu sâu thẳm ấy đã được Ba tôi mượn thơ để nói lên:

Vợ tôi
Vợ tôi người ở Quảng Nam
Ra đi lập nghiệp đất trời Tây Nguyên
Vợ tôi tính nết diệu hiền
Tấm lòng nhân ái khắp miền mọi nơi
…….”…………. …………… ………………
Hỏi người lập nghiệp Ban Mê
Thì nên học hỏi những điều vợ tôi.
(Tác giả: HẢI ĐÀ-1998)

Cuộc đời vốn dĩ phong trần phiêu bạc, lãng tử với chiếc đàn ghi-ta, ung dung tự tại không phải lo toan.

Ấy thế mà khi nằm trên giường Ba lại lo: “Tiền đâu mà lo cho Ba, nằm đây tốn tiền lắm.”

Tôi trả lời: “Ba cứ yên tâm, Ba chỉ cần khoẻ là được, tiền thì không thiếu.”

 Ba cứ chong ngóng và chờ để được về nhà, rồi cuối cùng cũng có kết quả. Tôi lại giường và nói: “Ba ơi, chiều nay mình được về nhà rồi Ba,về nhà được ăn những món Ba thích, làm những việc Ba thích, đánh đàn, điêu khắc, uống cà phê.” Nói rồi tôi lại quay mặt đi và những giọt nước mắt cứ thế mà lăn xuống.

Ba tôi ngồi phía sau, và lúc đó ông đưa bàn tôi vút nhẹ phía sau đầu tôi, không nói gì cả.

Có bác bên cạnh giường nói: “Cô ơi! ba cô thương cô lắm đấy!”

Ngồi trong đêm khuya bên cạnh chiếc bàn nhỏ, ánh trăng lờ lợt cả Học Viện đang chìm trong giấc mộng, ngồi viết lại mà lòng đau như cắt, giọt nước mắt cứ lăn dài trên đôi gò má. Dẫu biết rằng Sanh-Lão-Bệnh -Tử là quy luật của trời đất mà sao lòng thì vẫn đau lắm, đau lắm.

Về tới ngôi nhà nho nhỏ rêu phong trên Quốc Lộ, hàng dây leo bò đầy nhà, chim chóc, sóc, gà thì đầy vườn, mấy chú gà con cứ kêu chim chíp làm điếc cả lỗ tai, kèm với bộ bàn ghế và những tác phẩm mà Ba tôi điêu khắc. Cuộc sống giản dị, mộc mạc, đơn sơ đó chính là thú vui của Ba tôi thường ngày. Ba tôi thương gà lắm, tôi còn nhớ những ngày cuối đời, tôi dẫn Ba ra khu vườn phía sau, bắt cho Ba cái ghế và lấy cho Ba một lon gạo để Ba cho gà ăn. Cơm cũng vậy, vì Ba bị u não nên tôi tạo điều kiện cho Ba ăn chay để khối u nó không bị phát triển, tôi cứ cho Ba ăn một muỗng, Ba lại cho gà nữa muỗng bất cứ thứ gì cũng vậy, Ba một nửa gà một nửa. Tuy yếu nhưng Ba tôi vẫn có thể cảm nhận được màu sắc của chúng, Ba nói: “Gà càng lớn càng đẹp, Ba mua hồi nó còn nhỏ chỉ có 70 ngàn thôi, giờ lớn rồi,đẹp!”

Tôi nói: “Ba ơi! Mai con thả hết vào rừng cho nó ở nha Ba.”

Ba nói:” Ừ! mà Ba sợ nó đói, mình đói mình nấu ăn được, gà đói làm sao nó nấu.”

Nghe nói tới đó mà tôi thương Ba lắm, tôi buồn lắm, đau lắm vì lúc này trí nhớ của Ba đã dần dần bị lãng. Rồi sau đó Ba lại đi xách từng gàu nước tưới bơ, tưới cây từ sáng tới trưa mà lúc nào cũng kêu chưa tưới. Nhìn thấy cái dáng đi lếch thếch, dáng đi phất phơ như tàu lá gãy, thấy vậy lòng tôi như thắt lại, đau lắm Ba ơi.

Ba ơi! Giá như con có thể thay thế căn bệnh đó và hơn lúc nào hết con chỉ muốn Ba được vui khoẻ, con sẽ làm tất cả những gì Ba muốn. Ngày đêm con chỉ biết tụng Kinh cầu nguyện, thậm chí trong đồ ăn, trong nước uống, tôi luôn nguyện khối u đó không làm Ba đau đớn. Phép Phật cũng nhiệm màu linh thiêng, vốn dĩ căn bệnh quái ác ấy làm người ta chết không được mà sống không xong, thì ngược lại Ba tôi chỉ yếu dần. Những lúc khoẻ Ba lại lấy đàn ra hát cho tôi nghe những bản nhạc Trịnh, những bài thơ mà Ba đã sáng tác.

Chiều một mình thơ thẩn vào ra
Quanh hiu đêm bao tháng chiều tà
Nghĩa tình cha nặng lắm con ơi!
Ba bồng con than ngắn thở dài
Qua gian khổ những ngày tháng nắng
Ba im lặng những khi chiều vắng
Mỗi lần về Ba gọi con đâu?
(Sáng tác : HẢI ĐÀ-1994)

Rồi Ba lại nói: “Ba bệnh vậy chết sớm thì đỡ khổ vợ con.”

Nghe Ba nói mà lòng tôi như quặn lại,tôi muốn khóc thật to. Tôi nói với Ba: “Con cho Ba uống thuốc Vip, Ba sẽ chóng khoẻ lại thôi, rồi con sẽ dẫn Ba về quê thăm mộ ông bà Nội, thăm họ hàng, thăm mấy đứa cháu.”

 Ba tôi lại nói: “Tiền bạc đâu mà về.”

Tôi nói, “Ba yên tâm chỉ cần Ba khoẻ con dẫn Ba đi, tiền còn nhiều lắm Ba cứ yên tâm.”

Những ngày ngắn ngủi cứ thế trôi qua. Ba cũng mơ mơ màng màng và lúc này đã không còn nhớ tôi là ai nữa rồi. Lúc này tôi cứ dặn Ba phải niệm Phật, hôm bữa tôi đi Thái về và tặng cho Ba cái tượng Phật nho nhỏ được móc trên túi áo Ba tôi thích lắm, cứ tối là cầm nhìn Phật và niệm Phật, niệm riết và nó đã là thói quen của Ba cho dù Ba không còn nhớ gì. Ba còn nói: “Đây là bùa hộ mệnh của Ba, nên chết nhớ đem theo cho Ba.”

Cho dù thường ngày Ba không tới chùa lạy Phật và tụng Kinh, nhưng khi tôi lật ra những trang nhật ký được Ba cất trong ái tủ gỗ cũ kỹ ngày xưa, tôi lại không ngờ rằng văn thơ của Ba tôi chỉ có những người thực tu thực chứng mới có thể sử dụng những từ ngữ cao siêu như vậy, ngày đau bệnh Ba vẫn còn khoẻ, Ba làm một bài thơ cuối cùng.

“Mẹ cùng con đi đến chùa trong ánh hào quang rực rỡ,
Hoa Ưu Đàm nở thơm ngát mười phương.
Vi diệu cam lồ con và mẹ đảnh lễ đấng Từ Phụ ba cõi,
Là Bậc Đại Giác của nhơn gian và trời người.”

Ba nói, “Ba biết chỉ có Phật mới cứu Ba thôi, mà ba mệt quá bà Phật chưa đến nên ba không niệm nữa.”

Tôi nói: “Có cảm mới có ứng, Ba niệm nhiều vào thì bà Phật đến, cho đến một muỗng cơm là một câu niệm Phật.”

Lúc này dường như Ba yếu hẳn đi thân người teo riết nhìn mà ruột đau như cắt. Thời tiết bắt đầu chuyển lạnh, lạnh nhất là vào buổi sáng.  Cứ sáng tôi lại lấy máy sấy tóc sấy cho Ba khỏi lạnh với tuổi già lạnh lẽo rút xương. Tôi cho Ba ăn, uống thuốc,và thủ tục cuối là làm cho Ba ấm người rồi ngủ.

Ngày hôm ấy đen tối, âm u thê lương vì cơn bão số sáu đã kéo đến. Sáng ấy tôi nhớ trời rất lạnh, tôi phải quấn ba cái chăn tay chân vẫn tê cứng. Tôi lại vào xem Ba như thế nào, Ba vẫn đang ngủ say. Hôm đó tôi lại thấy khác thường hơn mọi hôm, chỉ một cái mền dày mà người Ba ấm vô cùng, tôi âm thầm nằm bên cạnh Ba để cảm nhận hơi ấm. Những ngày thường tay chân Ba lúc nào cũng lạnh cóng, tôi thấy Ba ấm tôi mừng lắm.

Mưa mỗi lúc một to, 6 giờ chiều không hiểu vì sao người tôi nóng sốt một cách bất thường, miệng và chân tay run lặp cặp. Tôi lại sợ Ba lạnh và bón nước cho Ba khỏi khô cổ, tôi nhìn và theo dõi hơi thở của Ba, đột nhiên nước mắt tôi lại rơi, tôi biết Ba tôi sẽ không qua khỏi trong đêm nay. Nhưng vì quá mệt, tôi cố gắng ngồi bên cạnh và niệm cho Ba, ba biến Chú Đại Bi, vì tôi muốn có một năng lượng Phật pháp sẽ bảo vệ Ba tôi, an tâm rồi tôi nói, “Ba ơi! Cố lên có đi thì đi giờ tốt Ba nhé!”

Đến 8 giờ tối Mẹ gọi tôi ra để làm phép phóng sanh. Tôi thắp nhang khấn nguyện hồi            hướng phước đức cho Ba và cuối cùng sau nửa tiếng Ba tôi đã tắt thở qua đời.

Tôi cố giữ bình tĩnh giải quyết và sắp xếp mọi công việc, cho đến khi nhìn thấy tấm ảnh và cáo phó của Ba được treo lên, bất chợt cảm xúc tôi lại ùa về. Lúc này tôi đã khóc như một đứa trẻ, những câu thơ, những lời nói, những bài hát và cách sống phong trần của một kiếp người, “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi trở về cát bụi,…”

Với tôi, Ba luôn là một người Ba lý tưởng, vì Ba hay nói chuyện thế giới và vượt ra ngoài thế giới luôn bảo thủ quan điểm của mình chỉ đối với người ngoài, còn đối với tôi Ba luôn làm tất cả, dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho tôi, luôn dạy tôi đạo đức của một con người, chứ không phải là con đường đen tối của danh vọng tiền tài. Tôi luôn khâm phục Ba không chỉ giỏi giang, cao cả, đứng đắn, kiên trì chịu khó mà hơn hết đó là cách sống lạc quan yêu đời của Ba. Giờ này Ba đã đi rất xa rồi một nơi rất xa của thế giới mà không bao giờ gặp lại. Rồi đây khi con thành công cũng không còn Ba vui mừng nữa, những bản nhạc Trịnh Công Sơn sẽ không còn anh Hải Đà vác cây đàn đi quanh xóm để hát tạo niềm vui cho mọi người, cây thuốc nhức răng sẽ thiếu đi ông chủ của nó.

Ba ơi! Giờ này Ba đã không còn nữa, lòng con trẻ nghẹn ngào tiễn đưa, Anh trai vẫn chưa lập gia đình, Em gái vẫn chưa có ý trung nhân, rồi sau này trên sân khấu của niềm hạnh phúc gia đình lại vắng bóng vị cha già khả kính, những bản nhạc chúc cô dâu chú rể sẽ không được chính miệng Ba hát, chúng con thương Ba biết dường nào.

Trước di ảnh của Ba, con luôn cầu nguyện hương linh của Ba nhờ Hồng Ân Tam Bảo gia hộ, nguyện Ba về cảnh giới an lành, gia đình Mẹ và các con luôn yêu thương Ba, cả gia đình vì Ba ăn chay tạo phước49 ngày. Con viết cho Ba những dòng này không vì trả nghĩa vì con biết Ba sẽ không cần. Nhưng con viết cho Ba vì từ sự thôi thúc lòng mình, từ sự kính yêu và nể trọng, trước gương ảnh vẫn là Ba, nhưng sao con nhìn Ba trong sự yên lặng làm tâm con xơ cứng mọi ngôn từ. Ba ơi! ở một phương trời nào đó, Ba hãy luôn hãnh diện và hỷ lạc khi đã sinh và đã cúng dường cho Đức Thế Tôn người con tinh thần của Ba. Con vẫn sẽ luôn tinh tấn từng ngày, từng giờ, từng sát na hơi thở, con cũng sẽ luôn cố gắng sống tốt, sống có ý nghĩa, đem lại lợi ích cho Đạo cho Đời! Con biết ở một nơi xa xăm nào đấy Ba vẫn có thể cảm nhận được tình yêu của chúng con và Mẹ. Mẹ và các con yêu Ba nhiều, Ba của chúng con.

Dõi bước chân con mọi nẻo đường
Tình Ba tựa núi lòng đại dương
Ba đã đi tìm vầng mây thẳm
Để lại trần gian ngấn lệ sầu.

(Học Viện Phật Giáo Việt Nam ngày 22/10/2022. Đêm hiu quạnh lặng lẽ bên tiếng gọi của sự thổn thức. Kỷ niệm đám giỗ đầu của Ba)

(Photo: Marke Le/ Wikimedia Commons)

(Truyện dự thi Phật Pháp Ứng Dụng do Chùa Hương Sen, Perris, California tổ chức năm 2022. Tác giả sinh ra và lớn lên tại Buôn Ma Thuột, thường trú tại Chùa Hương Quang, thị trấn Tuy Phước, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định khi viết bài này).


Discover more from Tinh Tấn Magazine

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *