Chúng ta là những cứu tinh của chính mình

*Đọc 12 phút*

Bài VISUDDHACARA THERO
Thầy THÍCH TÂM QUANG chuyển ngữ

(Bài kỳ 7 trích từ cuốn ‘Loving and Dying’ xuất bản năm 1993, được thầy Thích Tâm Quang dịch là ‘Chết Trong An Bình’ năm 2004.)

Ðôi khi là một nhà sư tôi được yêu cầu đến tụng kinh cho tang lễ. Tôi cảm thấy buồn cho gia quyến của người chết nhưng đôi khi tôi cũng cảm thấy không giúp được gì vì có quá nhiều điều khó xử trong vai trò của một nhà sư đi tụng kinh đám tang.

Một ngày nọ, một phụ nữ trẻ tuổi đến gặp tôi. Cha cô mới chết sáng hôm đó. Ông mới chỉ 42 tuổi. Cô nói với tôi bằng tiếng Hoa Phúc Kiến, “Xin mời thầy đến tụng kinh. Xin thầy mở con đường cho cha tôi.” Tôi nhìn cô ta với tất cả tấm lòng từ bi mà tôi có thể tập trung. Tôi có thể cảm thấy sự bối rối và đau khổ của cô. Cô khoảng chừng 20 tuổi và là một người con gái có hiếu. Trong thâm tâm tôi nói thầm với mình, “Trời ơi tôi sẽ mở đường cho người như thế nào đây? Con đường tưởng tượng nào tôi sẽ vẽ trong không khí cho hồn tưởng tượng đặt chân lên? Làm sao tôi có thể nói với người phụ nữ trẻ tuổi tội nghiệp đang ở trong tình trạng buồn phiền và bối rối rằng không có con đường nào như cô có lẽ đã tưởng tượng như thế?”

Ðức Phật cũng có lần ở trong tình thế như vậy và Ngài đã trả lời ra sao? Một hôm một người trẻ tuổi lại gần Ðức Phật và hỏi Ngài, “Bạch Thế Tôn, cha con chết. Xin mời Ðức Phật đến và cầu nguyện cho cha con, cứu độ linh hồn ông ấy để ông ấy có thể đi lên thiên đàng. Những người Bà La Môn cử hành những nghi thức này nhưng Ðức Phật lại còn mạnh hơn họ nhiều. Nếu Ngài sẽ làm điều đó, chắc chắn hồn cha con sẽ bay thẳng về thiên đàng.”

Ðức Phật trả lời, “Rất tốt, hãy đi ra chợ và và đem về cho ta hai cái bình đất và một ít bơ.” Người trẻ tuổi sung sướng vì Ðức Phật đã hạ cố thi hành một số thần thông để cứu linh hồn cha của mình. Anh ta vội vã đi ra phố và mua các thứ mà Ðức Phật bảo. Ðức Phật chỉ dẫn cho anh ta để bơ vào một bình và để đá vào bình kia. Rồi ném cả hai bình đó xuống ao. Người trẻ tuổi làm theo và cả hai bình đều chìm xuống đáy ao. Rồi Ðức Phật tiếp tục, “Bây giờ hãy lấy một cái gậy và đập vỡ hai bình đó ở dưới ao.” Người trẻ tuổi làm theo. Hai cái bình bị đập vỡ và bơ thì nhẹ đã nổi lên còn hòn đá vì nặng nên vẫn ở dưới đáy ao.

Rồi Ðức Phật nói, “Bây giờ nhanh lên đi tập họp tất cả những thầy tu. Hãy nói với họ đến và tụng kinh để bơ chìm xuống và viên đá nổi lên.”

Người trẻ tuổi nhìn Ðức Phật, sửng sốt, nói, “Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài có nói thật không ạ? Chắc chắn Ngài không thể trông chờ bơ nhẹ mà chìm và đá nặng mà nổi. Ðiều đó ngược lại với qưi luật tự nhiên.”

Ðức Phật mỉm cười và nói, “Này con, con đã thấy nếu cha con có một cuộc đời lương thiện thì những hành vi của ông cũng nhẹ như bơ cho dù thế nào thì ông cũng lên thiên đàng. Không ai có thể cản được, ngay cả đến ta. Không ai có thể chống lại nghiệp luật thiên nhiên. Nhưng nếu cha con có một cuộc đời bất thiện thì cũng giống như hòn đá nặng, cha sẽ bị chìm vào địa ngục. Dù tụng kinh nhiều đến đâu đi nũa bởi tất cả các thầy tu trên thế giới này cũng không thể gây thành khác được.”

Người trẻ tuổi hiểu rõ. Anh chữa lại quan niệm sai lầm của anh và ngừng đi loanh quanh đòi hỏi cái không thể được. Nụ cười của Ðức Phật đã đi tới điểm, Không ai có thể cứu chúng ta, tối thiểu của tất cả sau khi chúng ta chết. Theo nghiệp luật, chúng ta là sở hữu chủ của những hành vi của chúng ta, chúng ta là người thừa hưởng những hành vi của chúng ta. Những hành vi của chúng ta thực sự là tài sản của chúng ta. Chúng là chỗ nương tựa thực sự của chúng ta, là những thân nhân thực sự của chúng ta. Chúng là trung tâm từ đó chúng ta xuất phát. Khi chúng ta chết, chúng ta không mang được dù chỉ có một xu với chúng ta, hay bất cứ thứ đồ gì của cá nhân chúng ta. Cũng chẳng có thể mang được một trong những người thân để cùng đi với chúng ta. Giống như chúng ta đến một mình theo nghiệp của chúng ta thì chúng ta cũng phải ra đi một mình. Nếu chúng ta hiểu rõ nghiệp luật, thì chúng ta sẽ cảm niệm thấy sống một cuộc đời lương thiện quan trọng đến như thế nào trong khi chúng ta còn sống. Ðợi đến lúc chết thì sẽ quá muộn. Có một chút gì đó có thể làm được.

Tái sanh ngay tức khắc

Tuy nhiên, có một vai trò mà người thầy tu có thể áp dụng trong việc tụng kinh tang lễ. Ðó là cách chia sẻ công đức của Phật Giáo. Chia sẻ công đức hay hồi hướng công đức ảnh hưởng thế nào? Trước khi chúng ta có thể giảng nghĩa điều này, trước hết chúng ta phải hiểu cái gì xảy ra vào lúc chết. Theo Ðức Phật, tái sinh xảy ra lập tức sau khi chết, thức có tính chất sinh diệt không ngừng. Không có khoảng cách giữa cái chết và tái sinh kế tiếp.Vào lúc chúng ta chết thì lúc sau tái sinh xuất hiện, cả trên bình diện con người cũng như bình diện thú vật, bình diện ngạ quỷ, bình diện của A Tu La, bình diện địa ngục, hay bình diện thiên giới.

Ta tái sanh theo nghiệp của ta. Nếu ta sống một cuộc đời lương thiện, nói chung ta sẽ được sự tái sanh tốt. Tâm ở trong trạng thái thiện vào lúc chết làm cho tái sanh tốt đến. Ta có thể tái sinh làm người hay thần ở một trong nhiều cảnh giới cõi trời. Ðức Phật có thể nhìn thấy bằng năng lực tâm linh những cảnh giới khác nhau về kiếp sống, và cũng nhìn thấy chúng sinh chết ra sao và tái sinh ngay lập tức theo những hành vi của chúng. Ðức Phật và nhiều các nhà sư ở thời đại của Ngài đã có thể nhớ lại được tiền kiếp.

Nếu ta sống một cuộc đời tội lỗi, thì tái sinh xấu sẽ đến – một trong bốn trạng thái thống khổ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh hay A Tu La. Nhưng dù tái sinh vào bất cứ nơi nào, ta cũng không ở đấy vĩnh viễn. Khi thọ mạng ở trong đó hết hạn, cái chết xảy ra và nó đi vào một tái sinh mới. Cho nên kiếp sống ở địa ngục hay ngạ quỷ cũng không vĩnh viễn. Có hy vọng, sẽ có cơ hội, tuy có thể phải mất một thời gian không kể xiết để có cơ hội này. Cho nên tốt hơn là đừng để rơi vào những nơi thống khổ, một khi đã rơi vào đó không ai biết sẽ phải ở đó bao lâu. Có thể dường như vô tận!

Tương tự như vậy, kiếp sống ở cõi trời cũng không vĩnh viễn. Khi kiếp sống tại đó đã mãn, rất có thể rơi vào bình diện thấp hơn. Chỉ có các bậc A La Hán đã rũ bỏ tất cả ham muốn để tái sinh, đã loại bỏ được tất cả những ô nhiễm của tham, sân và si, sẽ không phải tái sinh. Lúc chết họ không còn phải sinh vào bất cứ một trong 31 bình diện kiếp sống. Họ không còn bị luân hồi, không còn bị vào vòng sinh tử. Họ đạt được vô dư niết bàn, tức là dập tắt được toàn bộ khổ đau của thân và tâm. Nhưng cho đến khi trở thành A La Hán, vẫn phải tái sinh.

Chia sẻ công đức ảnh hưởng ra sao

Bây giờ muốn hồi hướng công đức được hữu hiệu, điều cần thiết là người nhận công đức phải biết việc gì đang xảy ra. Người đó phải có mặt và có thể chấp thuận những hành vi thiện được tiến hành bằng tên người ấy hay nhân danh người ấy. Nếu người ấy chấp thuận, thì sự chấp thuận hay trạng thái tâm vui vẻ là một trạng thái thiện trong tâm. Nói một cách khác, người ấy giành được công đức cho chính mình bằng cách vui mừng những hành vi lương thiện đã được làm vì người ấy. Bởi vậy không phải là chúng ta chuyển công đức của chúng ta cho người ấy. Việc đó theo nghĩa đen không thể làm được. Cái xảy ra là người ấy vui mừng và sự vui mừng ấy là một hành vi công đức khiến cho sự khổ đau của người ấy có thể giảm đi và hạnh phúc của người ấy tăng lên.

Nếu sau khi chết, tái sinh diễn ra trong bình diện con người hay thú, chúng sinh sẽ không ở trong vị trí biết được điều gì xảy ra – chẳng hạn vẫn còn là một bào thai trong dạ con người mẹ. Trong những hoàn cảnh như vậy, người ấy không thể vui hưởng hay chia sẻ trong việc làm công đức.

Nếu một người đã bị tái sinh vào địa ngục, người ấy cũng không thể biết cái gì sẽ xảy ra trên thế giới này vì người ấy bị đau khổ ở địa ngục, đây là một bình diện khác của kiếp sống trong đó người ấy không hiểu biết về cái gì diễn ra nơi đây trên trái đất. Nếu người ấy được tái sinh làm người của cõi trời, cũng không hẳn là người ấy có thể tiếp xúc được với thế giới này. Người ta nói rằng vì quá sung sướng và quá bận rộn tìm hiểu những cái tuyệt vời của kiếp sống mới họ không thể quan tâm ngay đến cái gì đang xảy ra trên trái đất. Thời gian chỉ là tương đối, và một ngày ở tầng trời Tavatimsa được nói rằng bằng 100 năm ở trái đất! Cho nên vào lúc mà người trời, ấy là nói vậy, nhìn xuống dưới này, chúng ta tất cả đều đã chết và đi rồi! Hơn thế nữa, chúng ta không thể nói chắc người trời tự động có thần thông tâm linh để nhớ lại tiền kiếp của mình, mặc dù kinh sách có ghi lại một số trường hợp người trời nhớ những gì họ đã làm ở tiền kiếp để được tái sinh vào cõi trời.

Cho nên trong kinh Tirokutta, Ðức Phật nói với một người Bà La Môn là chỉ có thần hồn bất hạnh (peta) mới có thể chia sẻ công đức. Những thần hồn này, tuy ở trong những cảnh giới riêng của họ, có thể quan sát bình diện của loài người bằng chính mắt của họ. Nếu họ nhận thức được những hành vi công đức được làm cho họ, và vui hưởng về điều này, thì họ có thể giành được công đức do sự vui mừng của họ. Ðương nhiên không ai muốn người thân của mình tái sinh làm thần hồn bất hạnh (peta). Người ta thích nghĩ là họ sẽ tái sinh làm người hay làm người ở cõi trời.

Vì thế người Bà La Môn hỏi Ðức Phật cái gì sẽ xảy ra nếu người chết đã giành được sự tái sinh tốt. Ðức Phật trả lời, chia sẻ công đức vẫn là tốt, vì ta sẽ ít lạc hướng hơn luân hồi, lúc bắt đầu chắc chắn có một số thân quyến của chúng ta ở tiền kiếp đã có tái sinh không may thành petas. Vì tuổi thọ của peta rất dài, họ vẫn còn ở quanh quẩn đâu đó. Cho nên chúng ta chia sẻ công đức với thân quyến quá cố, và với tất cả chúng sinh. Ngoài ra, Ðức Phật nhấn mạnh, người làm hành vi tốt vì người đã ra đi chính mình cũng giành được công đức.

Chia sẻ công đức là một truyền thống Phật Giáo. Người Phật tử làm những hành vi tốt như cúng dường thực phẩm và những đồ cần thiết cho các thầy tu, bảo trợ in kinh và bố thí cho công cuộc từ thiện, như chỗ ở cho người già, bệnh viện từ thiện và cơ sở cho người tàn tật. Rồi người ấy mời những người đã ra đi và tất cả chúng hữu tình vui hưởng và chia sẻ công đức. Ðiều này tự nó là hành vi tốt, người làm không “mất” tý công đức nào mà còn được hưởng nhiều hơn bởi sự chia sẻ, vì hành động chia sẻ là một hành vi công đức khác. Cho nên người sống có hai công đức – thứ nhất là thực hiện hành vi tốt và thứ hai là chia sẻ công đức.

Sự có mặt của các nhà sư để tụng kinh Phật và nói Pháp cho những người thân bị mất mát vào lúc buồn phiền của họ, cũng là một sự hỗ trợ tinh thần to lớn. Nhà sư có thể nhắc nhở những thân nhân còn sống về giáo lý vô thường, khổ đau và vô ngã của Ðức Phật. Các nhà sư thuyết phục thân nhân chấp nhận sự khổ đau với trí tuệ, và phấn đấu chuyên cần hơn để đạt Niết Bàn, sự chấm dứt hoàn toàn tất cả khổ đau.

Nếu chúng ta hiểu và chấp nhận khái niệm Phật Giáo về tái sinh xảy ra ngay lập tức, thì chúng ta sẽ hiểu được điều quan trọng là phải thực hành những hành vi tốt trong khi chúng ta đang sống. Bởi làm những hành vi tốt, chúng ta có nghiệp tốt. Nghiệp là di sản thực sự của chúng ta, vì chỉ có hành vi hay nghiệp mới có thể theo chúng ta. Sau khi chết, việc đốt vàng mã, nhà cửa, xe cộ bằng giấy, v.v. không có lợi lộc gì cho người chết. Việc làm này đi ngược lại với cái hợp lý của nghiệp. Hơn thế nữa chúng ta có thể quyết định – làm sao có thể đốt cái gì ở nơi đây lại có thể biến thành cái gì ở bên kia thế giới hay ở bất cứ nơi nào. Cái gì được đốt thì chỉ là cháy; nó vẫn là cái bị cháy. Trong phạm vi nghiệp luật, dâng cúng đồ ăn cho người chết cũng vô nghĩa. Khi tái sinh, chúng sinh mới sinh tồn bằng loại đồ ăn thích hợp với bình diện của kiếp sống. Bởi vậy chúng ta thấy Ðức Phật không bao giờ bảo chúng ta cúng đồ ăn cho người chết hay đốt vàng mã, vân vân…

Hiển nhiên, những nghi thức và nghi lễ về tang chế được truyền thừa từ thế hệ này đến thế hệ nọ không có một tư tưởng nào là căn bản và có nghĩa lý. Ðiều mà Ðức Phật dạy là, như đã giải thích trước đây, làm một số hành vi tốt vì, hay để, tưởng nhớ đến người chết và rồi chia sẻ công đức bằng cách tụng bằng tiếng Pali hay bằng ngôn ngữ chúng ta có thể hiểu được, Xin đem công đức này hướng về những người quá cố. Xin những người chết hoan hỉ và chia sẻ công đức đã được làm.

Trẻ em trong một đám tang Phật Giáo tại Don Det, Lào tháng 2, 2018. (Photo: Basile Morin / Wikimedia Commons)

Tang lễ Phật giáo là nghi thức đơn giản

Con đường Phật Giáo có nghĩa lý và đơn giản. Nếu chúng ta hiểu và đánh giá cao con đường Phật Giáo, thì tang lễ Phật Giáo sẽ rất đơn giản tránh nghi thức và nghi lễ dị đoan, tránh sợ hãi, lo lắng hay bối rối. Ta không cần phải đốt cái này cái kia,tiến hành những loại nghi thức xa lạ, và phải tuân thủ tất cả những điều cấm kỵ, tất cả những thứ hoàn toàn vô nghĩa và gây bối rối cho những người sống thường bị cuốn theo điều đó vì sợ hãi, áp lực xã hội hay dốt nát hơn là bất cứ cái gì khác. Ta không phải mời những người chuyên nghiệp để tụng kinh hay thực hiện các nghi thức với một lệ phí nặng nề lên tới cả ngàn Mỹ Kim hay thuê một ban nhạc để cử nhạc mặc dù có thể là nhạc rất nghiêm trang.

Là một Phật tử, ta chỉ cần mời những nhà sư Phật Giáo đến tụng kinh không cần phải dài. Sẽ là tốt nếu có thể những kinh này được dịch ra tiếng Anh hay Trung Hoa để tất cả mọi người có mặt có thể hiểu được, cảm niệm và sưy ngẫm về cái đã được tụng những điều Ðức Phật đã dạy về bản chất của sự sống và cái chết. Quan trọng nhất là giữ năm giới bởi người cư sĩ tụng bằng tiếng Pali, được phiên dịch thì tốt hơn theo nhà sư. Sự gìn giữ và tuân theo năm giới là sự tu hành căn bản của người cư sĩ Phật Giáo. Sau khi thọ giới, nhà sư có thể nói Pháp để an ủi, khuyên giải và khuyến khích người có thân nhân chết.

Trong truyền thống Nguyên Thủy, các nhà sư không thu một khoản lệ phí nào về buổi lễ của họ. Lễ này các nhà sư làm do lòng từ bi, để hỗ trợ tinh thần cho những cư sĩ thuần thành trong giờ cần thiết của họ. Bởi vậy các nhà sư không tìm kiếm sự đền bù bằng tiền bạc vì điều đó không hòa hợp với tinh thần Phật Pháp. Tuy nhiên, những cư sĩ thuần thành đôi khi cúng dường một phong thư đỏ cho vị sư để mua những thứ cần thiết, như y áo hay thuốc men. Số tiền này, nếu cúng dường, chỉ là một biểu hiện biết ơn. Thực ra, các nhà sư không mong muốn phong bì đỏ, và nếu nó được cúng dường thì chỉ là sự cúng dường hoàn toàn theo sáng kiến của người cúng dường. Phơng bì này là biểu hiện sự biết ơn không phải là lệ phí mà là cúng dường. Lệ phí, trong trường hợp tang lễ, thường là một món tiền lớn lao được ấn định bởi người làm dịch vụ tang lễ trước khi đồng ý tiến hành những tế lễ tỷ mỉ. Và như chúng tôi đã nói điều đó không phải là việc làm của một nhà sư.

Những thân quyến, đương nhiên có thể cúng dường đồ ăn cho các vị sư tại chùa. Những người có khả năng hơn có thể cúng dường in kinh sách Phật Pháp để biếu không. Họ cũng có thể cúng dường cho những cơ sở từ thiện, cho những người nghèo, và những người túng thiếu. Thay vì những vòng hoa tang, thân quyến và bạn bè nên được khuyến khích cúng cho những hội từ thiện đặc biệt. Tất cả những việc như thế làm tang lễ có ý nghĩa – bớt đi những lề thói vụng về đem đến nhiều bối rối và uổng phí tiền bạc.

(Còn tiếp kỳ 8)


Discover more from Tinh Tấn Magazine

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *