Tâm đọng giọt xuân

*Đọc 17 phút*

Bài DIỆU LÝ

Đánh dấu sinh nhật bảy tuổi của Nhí là một bé mèo do ba má nó tặng để bầu bạn cùng con. Sẽ chẳng có gì chộn rộn nếu bé mèo Bi Ve không bị thất lạc hai tuần sau đó.

Nhí cưng mèo đến độ nằn nì ba má mua thêm cho nó chiếc xe đẩy Bi Ve. Một buổi chiều cuối tuần Nhí và bé mèo được má đưa ra biển dạo chơi. Biển sóng dạt dào, gió thổi mát rượi. Trong khi má Nhí lui cui tìm chỗ thích hợp để bày tấm trải, ghế xếp và giỏ đồ ăn, Nhí khoái chí chạy tung tăng nhưng mắt vẫn ngó chừng Bi Ve ngồi thu lu trong xe đẩy.

Bé mèo Bi Ve đi chơi biển (Hình tác giả cung cấp)

Vốn dĩ là loài thích nghi chậm, mèo chỉ quen sống nơi nó được chăm sóc. Đối với một bé mèo non một tuổi, khi được đưa ra một môi trường hoàn toàn mới mẻ thì thoạt đầu Bi Ve ngồi yên quan sát, đoạn cảm giác như bất an nên đâm hốt hoảng trườn mình vùng vẫy khỏi xe đẩy và phóng chạy trước sự thảng thốt của má con Nhí. Thông thường, bản năng của mèo là một khi đã chạy trốn thì phải tìm nơi ẩn nấp trong yên lặng để được an toàn, đó là cách bảo vệ chính của chúng khỏi những kẻ săn mồi. Thế nên dù đã khản giọng gọi và lùng sục các lùm cây gần đó đến chiều tối chập choạng, hai má con Nhí vẫn không tìm ra Bi Ve. Về lại nhà, ba má Nhí cãi nhau ì xèo; riêng thằng bé khóc ròng, bỏ ăn uống mấy bữa.

Ông bà ngoại nghe chuyện thì xót cháu, đề nghị ba má Nhí gửi thằng bé về chơi với ông bà trong hai tháng hè. Ông bà gọi điện thoại nhắc riết đến độ ba má thằng Nhí phải kêu, “Không biết ba má chịu nổi bao lâu chớ nửa chừng mà gọi đón về là tụi con quải chè đậu.”

Kệ vợ chồng con gái càm ràm, ông bà chỉ cần trông thấy có đứa nhỏ chạy nhảy lăng xăng.

Thằng cháu ngoại thường lủi thủi một mình, thậm chí sau giờ học bước ra khỏi xe buýt của trường là ghé vô nhà ông cụ hàng xóm tốt bụng chờ đến khi ba má nó đi làm về thì mới được đón về nhà. Ở với ngoại, Nhí được quan tâm nhiều. Dù nó phải cố gắng dùng tiếng Việt lọng ngọng để nói chuyện với ông bà nhưng nó có thể hỏi đủ chuyện trên trời dưới đất mà không bị rầy la. Được mấy hôm thì thằng bé được ông đưa đến chùa học tiếng Việt cuối tuần. Lúc đầu ông bà có phần e ngại đứa cháu rụt rè, nhưng tuần qua tuần thằng bé hớn hở trông thấy khiến ông bà mừng thầm.

Có một bữa lớp tiếng Việt của Nhí được đi dã ngoại, thằng bé chạy chơi thỏa thích. Cuối ngày ông đón về, cháu háo hức kể ông nghe về một nơi có nuôi ngỗng mà sư cô đưa tụi nhỏ đến.

“Con thương ngỗng. Mai này con sẽ bắt chước ngỗng.”

“Mần cớ chi mà phải giống con ngỗng, Nhí?”

“Không ai ép được ngỗng ăn tôm cá hoặc thịt. Ngỗng chỉ ăn rau cỏ.”

Thì ra ngỗng có tâm Phật, thương muôn loài nên ăn lạt. Xem ra thằng bé bảy tuổi ý thức phần nào rằng ăn lạt để thấu hiểu mọi sinh linh cần sự sống như thế nào. Tuy vậy, Nhí cũng không quên kể ông nghe rằng lúc mới gặp còn lạ nên thằng bé bị ngỗng rượt đuổi chạy mệt nghỉ.

Thế nhưng vừa khi bước ra khỏi xe ông ngoại để vô nhà là thằng bé đã thấy choáng váng, hoa mắt, đôi chân đứng không vững như thể bị say nắng. Nhí trút vội ba-lô trên lưng, chỉ kịp kêu “Ngoại ơi” rồi ngồi phịch xuống sô-pha. Bà từ trong bếp nghe tiếng cháu gọi thì bước nhanh đến bên thằng bé, cất giọng âu lo, “Sao vậy con?”

Đêm hôm đó, Nhí nằm sốt mê man. Hết bước chân ông lại đến bà thoắt vào thoắt ra khỏi phòng. Vầng trán nóng hổi của thằng bé được chườm bằng chiếc túi bọc đá lạnh. Thỉnh thoảng, cái túi được trở bề trước khi đặt lại trên trán. Trong giấc ngủ bằn bặt với hơi thở mệt nhọc, Nhí cảm nhận bàn tay ai đó vuốt tóc, xoa lưng nó âu yếm. Dường như gió từ đôi bàn tay ấy dần dần hạ nhiệt cho thằng bé.

Buổi sáng sớm bước vô phòng cháu, bà thấy thằng bé mặt còn đỏ bừng dù cơn sốt đã thuyên giảm.

“Con có bị chết không Ngoại?”

Nghe giọng cháu đầy ưu tư, bà đặt tay lên trán thằng bé,

“Đừng nói tầm phào! Chết đâu dễ hả con? Muốn chết tốt thì phải sống tốt cái đã… Mà thôi con ơi, dậy ăn chén xúp cho mau mạnh. Bệnh rề rà là phải nghỉ học tiếng Việt rồi sư cô thắc mắc cho mà xem. Con muốn đến chùa sinh hoạt với mấy bạn nữa không?”

Thằng bé lăn trở trên giường, giọng uể oải thấy rõ, “Dạ muốn đi, nhưng bây giờ con không muốn ăn, Ngoại.”

“Đâu được! Không ăn là xót ruột cầm canh, uống thuốc sao đặng? Có thương Ngoại không nà?”

Một khi bà đã vin vô cái lẽ thương yêu tự nhiên trong gia đình thì thằng bé phải nhượng bộ. Bà nói với Nhí để bà bưng đồ ăn vô tận phòng cho cháu nhưng thằng bé đã ngay lập tức ngồi dậy bước ra bàn ăn nhà bếp.

“Ngoại biểu con ăn gì?”

“Thì Ngoại nấu xúp tổ yến bồi bổ sức khỏe cho con.”

“Tổ yến là cái gì, Ngoại?”

Cái thằng khảnh ăn và kỹ tính như má nó hồi nhỏ. Chuyện gì cũng hỏi rốt ráo hoặc đòi nhìn tận mắt cho bằng được trước khi bỏ vô miệng ăn. Bà đành phải quành ra góc bếp lấy đưa cho thằng bé cái thứ nó đang thắc mắc. Đó là một chiếc hộp thật đẹp được bọc ngoài bằng lớp giấy kính trong suốt. Nhìn xuyên thấu là khoảng chục tổ yến nhỏ xíu tựa những chiếc chén trà đồ chơi bé gái. Bất chợt thằng bé đâm hiếu kỳ bởi vài gợn lông tơ còn dính trên tổ yến. Trao lại bà ngoại hộp yến sào, Nhí hối hả trở vô phòng và quay lại với chiếc Ipad, rồi thì mấy ngón tay nhỏ của thằng bé lướt trên bàn phím.

Giọng bà nhuốm vẻ rầy rà,

“Nè con, mới ốm dậy mà đã chúi đầu vô màn hình là hại mắt lắm đa.”

“Dạ, Ngoại cho con coi họ nói cái này là cái gì.”

Thoáng chốc Nhí đã quên bẵng sự hiện hữu của bà ngoại đang ngóng đứa cháu cưng húp chén xúp yến. Dõi theo cái màn hình Ipad, tâm trí thằng bé lang thang đến một bờ biển đá sóng vỗ tràn bờ với hang động cheo leo nơi loài chim yến có đôi cánh dài mỏng manh hình lưỡi liềm cư trú. Đôi mắt Nhí dán chặt vào hình ảnh những con chim yến treo mình, chúc đầu miệt mài tiết nước bọt kết tổ. Loài chim này sinh tồn bằng cách kết những tổ yến nằm chênh vênh trên vách đá để rắn rết hay ác thú không vói được. Một khi đã chọn nơi làm tổ thì chim yến an cư luôn mà không di dời chỗ khác. Chính vì vậy nếu bị loài người nhẫn tâm lấy đi những tổ ấm hạnh phúc thì chim yến lại nhọc công kết tổ mới.

Nhí thừ người, mặt bần thần thấy rõ.

“Mém chút xíu nữa là con xuống địa ngục luôn đó. Con không ăn đâu.”

“Nghĩa là sao, con?”

Thằng bé không trả lời mà chỉ lắc đầu quầy quậy, nhất quyết không đụng đến chén xúp yến đang đặt trước mặt. Bà cất cao giọng ới ông đang đứng trước hiên nhà bước vô nhanh đặng làm sao mà thuyết phục thằng cháu cưng ăn hết chén xúp.

Lắng nghe bà trút nỗi bực dọc, ông chỉ yên lặng. Trẻ con có những lý lẽ của riêng chúng mà đôi khi người lớn khó lòng chấp nhận. Chúng làm điều chúng muốn, ngược với người lớn chỉ muốn chúng làm điều họ muốn mà thôi. Vả lại, đem người mà đứa bé yêu thương ví như một Ba Bị chín quai sẽ khiến nó nhìn người đó bằng con mắt sợ hãi, thậm chí còn có thể tổn thương tâm hồn trẻ thơ. Rồi ra đứa bé sẽ chẳng bao giờ mở miệng nói cho người lớn biết bất cứ chuyện gì đã xảy ra dù điều đó đúng hay sai. Chuyện “dọa dẫm” và “dạy bảo” là hai mặt của đồng xu, không thể nhập nhằng. Tiếc là không phải ai cũng phân định được rõ ràng.

Thường thì Nhí hiếm khi cãi người lớn, nhưng hôm nay thằng bé nổi bướng mặc cho sự có mặt của ông và sự kể lể dài giòng của bà.

“Con không muốn ăn món này. Con thương chim yến lắm!”

Lời cảm thán của cháu ngoại khiến ông vỡ lẽ, thì ra là vậy! Lòng trắc ẩn của đứa bé con nhắc ông nhớ lúc mình trạc tuổi cháu ngoại khi đi chăn trâu thường bắt chước lũ bạn làm giò cột bẫy bắt chim sáo trên u lưng trâu. Chim sáo đậu trên lưng trâu để bắt châu chấu bay lên khi trâu ăn cỏ. Một khi chân chim bị mắc vào cái giò làm thành thòng lọng bằng lông đuôi trâu thì không sao bay lên được nữa. Có bữa ông bắt được cả chục con thì lấy làm hớn hở. Niềm vui thưở ấu thơ mang lại phúc đâu chưa thấy nhưng đến tuổi này ông mới nhận ra đó là một tội nghiệp chính mình gây ra cho những chú chim nhỏ bé đáng thương! Thời trẻ, có những thứ ông không nhìn thấy được dù mắt sáng. Về già, hình như ông sáng mắt ra nên nhìn cuộc đời rõ hơn trước.

Cháu ngoại ông mới ngần đó tuổi đã biết chùng lòng bởi sự xâm hại của con người đến loài vật, đến tâm thức xã hội cùng những giá trị nhân bản. Phải chăng hằng tuần thằng bé được nghe pháp, nhận ra rằng dù con chim bé nhỏ nhưng cũng là một sinh linh?

Ông chỉ nhỏ nhẹ nhắc bà rằng thôi thì từ nay đừng mua tổ yến nữa bởi vô hình trung mình đã tạo nghiệp. Có cầu ắt có cung, người bán sẽ tận lực để lấy cho được tổ yến dù hiểm nguy gian nan cách mấy. Đoạn ông xoa đầu cháu, hứa sẽ nói bà làm món khác cháu ăn mau khỏi bệnh đặng cuối tuần ông còn đưa nó đi sinh hoạt ở chùa. 

Biết Nhí thích vô chùa gặp bạn bè đồng lứa, ông gắng không để cháu bỏ lỡ buổi học nào. Thường thì đưa thằng bé vô lớp xong là ông nhẩn nha tản bộ trong khuôn viên chùa cho đến lúc cháu tan học. Cảm giác an nhiên luôn hiện hữu trong khi ông cất bước chậm rãi dọc theo lối đi có hàng cây sứ tỏa hương nhè nhẹ. Có khi ông ngồi xếp bằng dưới bóng mát cây sứ, mắt nhìn vào bức tượng đang mỉm cười. Ông lắng nghe tiếng chim hót, tiếng kinh kệ để tập cho tâm không bị nhiễu. Trong không gian lắng đọng, ông nghe được cả hơi thở của bản thân và nhận ra rằng mình may mắn khi còn được hít thở không khí một cách sảng khoái.

Lớp dạy tiếng Việt tại ngôi chùa nhỏ do sư cô phụ trách gồm khoảng hai chục học trò, tuổi sắp lớp từ năm đầu đến năm cuối của bậc tiểu học. Đón Nhí về nhà sau mỗi buổi học là lúc ông cháu tình tang kể chuyện nhau nghe suốt đoạn đường.

“Hôm nay sư cô hỏi con quê ông Ngoại ở đâu rồi cười quá trời.”

“Cớ gì sư cô cười con?”

“Dạ con nói ông Ngoại là người Ăn Gian thì sư cô lắc đầu nói không phải vậy và biểu con về hỏi lại đi.”

Lúc này đến lượt ông cười ha hả,

“Hiểu rồi, tại con nói không rành tiếng Việt. Phải nói ông Ngoại là người An Giang mới đúng.”

Liếc thấy cháu ngoại ỉu xìu, ông dù đang lái xe cũng khẽ nghiêng người vỗ nhẹ vai thằng bé, khích lệ cháu rằng lúc mới làm quen một thứ tiếng, phải nói trật, viết sai, rồi sửa cho đúng thì mới là phương cách để nhớ và tiến bộ. Nghe ông đoan chắc với cháu rằng đến Tết thì tiếng Việt của nó sẽ khá hơn nhiều, thằng bé trở lại giọng hồn nhiên,

“Dạ, sư cô nói Tết đến là có mùa xuân. Con thương mùa xuân lắm!”

“Cớ gì mà thương?”

“Dạ tại vì mùa xuân đến là ông Ngoại và ba má con hổng cần lo tiền đổ xăng khi lái xe nữa.”

“Nói năng gì trớt quớt vậy ta?”

“Dạ, con nhớ ông Ngoại ưa ca cái câu, ‘Xuân đem xăng dầu cho kiếp nghèo đói,’”

Úy trời, Nhí ơi là Nhí! Từ cái lời “Xuân đem sang giàu cho kiếp nghèo đói” mà thằng bé hiểu ra là “Xuân đem xăng dầu cho kiếp nghèo đói.” Câu này mà đem ca trên sân khấu chắc khán giả cười rần rần chớ không chỉ riêng ông đâu.

Mấy mẩu chuyện rôm rả giữa hai ông cháu khiến đường về nhà như thu ngắn lại. Thấp thoáng dáng bà đứng ngóng hai ông cháu về ăn cơm chung.

“Bữa nay bà Ngoại nấu nồi canh kiểm bự tổ chảng cho ông cháu bây ăn lòi bản họng đó nghen. Canh kiểm ăn với bún hay bánh mì là đúng bài luôn á.”

“Món canh này nấu với rau kiểm hả Ngoại?”

Trẻ con suy nghĩ thiệt thà, tỷ như canh bí đao thì phải nấu với bí đao còn canh mùng tơi thì không thể nấu với loại rau khác ngoại trừ mùng tơi vậy đó. Bà bèn giải thích cho cháu hiểu,

“Kiểm là món canh chay đặc trưng của người miền Nam. Trong các dịp rằm hay lễ, bá tánh mang các quả, củ đến chùa cúng dường. Nhà chùa gộp các thứ lại để nấu thành nồi canh kiểm mời Phật tử ăn. Tùy tình hình thực tế của mỗi chùa, món canh kiểm được nấu từ các loại nguyên liệu khác nhau và không theo một công thức nào ráo trọi.”

“Ngoại ơi, vậy món chay này phải gọi là ‘kiệm’ mới đúng vì giúp chùa tiết kiệm được nhiều thứ.”

Thằng nhóc thiệt hết biết! Đi học tiếng Việt được bao lâu mà đã lý sự chữ nghĩa khiến ông bà phải ngẩn người. Nhưng rõ ràng món ăn mang tính cộng đồng này đã theo đúng tinh thần không bỏ phí của nhà Phật. 

Ông bà cùng cháu thưởng thức từng hương vị của món kiểm, độ giòn sựt của nấm mèo, chất ngọt từ khoai lang, táo tàu, độ béo của nước dừa, đậu phộng cùng với vị bùi của khoai cao, bí rợ. Thảy đều hoà quyện với nhau làm nồi canh kiểm trở nên độc đáo. Dư vị của từng loại vẫn còn lưu luyến nơi đầu lưỡi. Khi được hỏi thấy món này ra sao thì đứa cháu ngoại trả lời,

“Dạ, con thương canh kiểm lắm. Con muốn bà ngoại lâu sống đặng nấu canh kiểm cho con ăn hoài.”

Trời thần ơi thằng cháu ngoại của bà cái thứ gì cũng thương hết; lại thêm nó muốn bà sống lâu mà nói ra thành chết sớm. Mắc cười với tiếng Việt của cháu, bà quay qua nhắc ông liền, “Nè ông, ngoài chuyện đưa thằng Nhí đến chùa học tiếng Việt, ông nhớ đừng xía tiếng Anh vô trong lúc nói chuyện với cháu à nha.”

“Nó chịu nói tiếng Việt là mừng rồi bà ơi! Bà lo bò trắng răng, vốn liếng tiếng Anh của tui xếp chưa đầy cái lá mít mà xổ gì nổi. Bà mới là người hay xổ nho chùm thì có, ai đời dạy cháu bằng mấy cái thành ngữ tục ngữ khó bà cố.”

“Tui thiệp ông luôn. Nói chuyện gì cũng đá giò lái được.”

Đang cùng cháu vừa ăn vừa chuyện trò thì bà lại đứng lên quày quả bước vô phòng viện cớ cần nghỉ ngơi để hai ông cháu cà kê dùng bữa. Đâm cụt hứng, ông đoán biết ngay rằng bà có phần hờn dỗi do ông trả treo ba cái thắc mắc dặn dò của bà. Ông chép miệng rầu rầu, tự hỏi vợ chồng già sống với nhau đến tuổi này rồi nhưng sao còn giận hờn như cơm bữa. Hay biết đâu chừng ông bà cãi nhau bởi họ cảm thấy cần đôi co cho bớt tẻ nhạt nhưng bản thân mỗi người đều biết điều gì phù hợp cho cả hai vì họ vẫn quan tâm đến nhau. 

“Tại cái cục tự ái của bà Ngoại bây còn chình ình ở đó nên mới vậy.”

“Cái cục này hình dáng nó ra sao, ông Ngoại?”

“Bự lắm à con! Nghẹn họng luôn á.”

“Tại sao bà Ngoại không đi bác sĩ lấy nó ra?”

Đúng là con nít ngây thơ quá cỡ thợ mộc, sao không đoán được ý ông vậy cà.

“Không cần! Chỉ có cách bà Ngoại bây không chù ụ nữa, bớt lo lắng tào lao, tâm an trở lại là mọi thứ mát trời ông địa luôn.”

Rồi sực nhớ lời bà dặn ông chiều xế phụ bà một tay làm mâm cơm cúng cô hồn, ông giục cháu đi ngủ trưa để lúc thức dậy còn theo ông ra góc vườn nhỏ nơi cặm trồng khóm mía. Trong lúc ông tẩn mẩn đốn chặt thân mía thẳng đuột cao kều thành những khúc ngắn vừa độ gang tay, bà cũng trờ bước ra bếp lui cui chuẩn bị nồi cháo trắng, khoai lang, đậu phộng, bắp luộc.

Ông thấy chút gì nhẹ nhõm, xem chừng bà không còn hờn dai như thời trẻ nữa. Thói quen đem tâm thức đầy ắp hình bóng kẻ giận người hờn đến tận lúc lên giường ngủ nay được bà dọn dẹp trống trải trong khoảnh khắc. Mà cũng tại do ông nói năng cà khịa khiến bà nổi sùng đó thôi; thành thử ra nếu biết buông bỏ một chút thì thử hỏi chỗ nào còn phiền não? Với suy niệm vợ chồng đến với nhau là do nhân duyên dẫn dắt, ông thầm nhắc mình cần bao dung với người bạn đời hơn nữa đặng còn mong kết duyên lành cho kiếp sau.

Ngó tới ngó lui thấy thứ gì ông bà làm cũng đều ngồ ngộ, Nhí hỏi, “Cúng cô hồn là sao hả Ngoại?”

“Tín ngưỡng cổ truyền cho rằng con người ta khi chết đi, thân xác lần hồi phân hủy nhưng phần hồn tồn tại sẽ đến những cảnh giới khác nhau tùy theo nghiệp họ tạo khi còn sống. Có những cô hồn chưa được tiếp nhận phải vất vưởng, bị đói khát triền miên nên dương gian mới có những mâm cơm cô hồn đặng cứu giúp những vong linh này.”

“Mình có thấy được mấy cô hồn đến lúc nào không, Ngoại?”

“Không đâu con à! Họ ăn lặng lẽ rồi đi. Ở đây không có trẻ em chòm xóm để mình gọi tụi nhỏ đến phát thí thực. Tàn nhang thì mình bưng vô nhà ăn chớ bỏ đồ cô hồn vô thùng rác là tội chết đó nghen.”

Đăm đăm ngó mâm cơm cúng, Nhí bất giác thốt, “Cơm cô hồn thì con ăn riết đến độ ớn luôn Ngoại ơi.”

“Mèn ơi, nói năng gì bá láp bá xàm vậy Nhí? Mỗi năm ông bà ngoại cúng cơm cô hồn có một lần mà.”

“Ăn cơm ở nhà ba má con cũng giống như cô hồn ăn vậy đó. Người này ăn xong bữa lúc nào thì người khác hổng hay.”

Ông bà vụt trao đổi cái nhìn thấm thía. Đứa cháu ngoại tuổi còn non mà tâm đã già. Đối với trẻ con, mọi chuyện luôn đơn giản. Chúng nói thẳng, nói thật điều chúng thấy. Kho ký ức bảy tuổi của đứa bé không giàu có cho lắm nhưng lại rõ nét bữa cơm cô hồn thời hiện đại. Những gợi nhớ có lúc trào lên sự trống vắng, hụt hẫng đến tê dại. Bữa cơm gia đình tẻ nhạt đến độ lạt lẽo. Không có tiếng chén đũa rổn rảng. Không có lời hỏi han trao đổi giữa những thành viên trong gia đình. Ba Nhí vừa ăn vừa xem ti-vi. Má Nhí cắm mặt vào chiếc điện thoại thông minh. Nhí xúc chén cơm, biết đâu chừng thằng bé vừa nhai vừa muốn khóc về nỗi buồn hiu buồn hắt của phút giây gia đình sum họp. 

Buổi tối bà chờ lúc Nhí vô phòng sau khi ba má nó gọi điện thoại thăm con xong thì đến lượt bà lựa lời nói xa nói gần. Cuộc sống hiện đại bộn bề vội vã khiến con người ta bị cuốn vào vòng xoáy mưu sinh mà quên bẵng những điều đơn giản. Đó là các yếu tố phải có đối với một gia đình, sự chăm sóc và quan tâm đến nhau. Không biết vợ chồng con gái trả lời bà thế nào mà ông chỉ thấy bà ngồi buồn xo. Cái điệp khúc “Hồi bằng tuổi tụi con thì ba má thế này, ba má thế kia” dường như không áp dụng hiệu quả với tuổi trẻ bây giờ. Khoảng cách thế hệ cha mẹ và con cái vốn dĩ có sẵn và dường như lại giãn thêm khi chúng sống xa cha mẹ. Chính vì đôi bên thiếu thốn những ký ức chung mà khó tạo sự cảm thông.

“Bà ơi, đã giải nhưng không thoát phải không?”

Câu hỏi thấm thía của ông khiến bà bật khóc rấm rứt, “Tui thấy tui già mà còn dại dột. Bởi thương con thương cháu quá nên khó đến thân.”

“Đã hiểu nghiệp rồi, khóc có ích gì đâu! Bà cứ coi đi, thế hệ bà với tui là thế hệ cuối cùng biết nghe lời cha mẹ. Rồi ra bà phải ráng chấp nhận thêm chút nữa rằng mình là thế hệ đầu tiên lắng nghe con cái. Thêm nữa, bà cũng phải tu cái miệng. Liệu hồn nói nhiều quá, vợ chồng tụi nó ứa gan xẹt qua đón thằng Nhí về sớm thì ai rầu cho biết!”

Phải đó, bấm đốt ngón tay thì tính ra cháu ngoại không còn ở chơi với ông bà bao lâu nữa sẽ trở về với ba má nó. Ông bắt đầu đếm ngược những cuối tuần được đưa cháu đến chùa; riêng bà thì chăm chút hơn với từng bữa ăn cho cháu vì e phải chờ lâu lắm mới lại có dịp. Một buổi trưa, con gái bất ngờ gọi điện thoại thay vì vào buổi tối như thường lệ khiến bà đâm lo lắng về điều ông cảnh báo. Nghe ra thì đó lại là một tin vui: Trạm thú y liên lạc cho ba má Nhí biết rằng họ đã tìm được Bi Ve. Họ muốn người nhà đưa Nhí đến trạm thú y để xác nhận bé mèo.

Trông mặt Nhí rạng rỡ thì đủ biết nó vui cỡ nào. Không cần ông bà phải hối như mọi lần, thằng bé thay quần áo lẹ làng để được đưa đi đón bé mèo. Đến nơi là Nhí nhảy chân sáo dẫn trước ông bà vô văn phòng. Thằng bé nói chuyện với nhân viên trạm thú ý rồi thông dịch lại cho ông bà những gì đã xảy ra cho bé mèo.

Vào cái ngày sổng khỏi xe đẩy của Nhí, không rõ bé mèo đã ta bà đến tận đâu nhưng xẩm tối thì tần ngần dừng chân tại cái hàng ba nơi còn sót vài mẩu bánh vụn rải cho chim. Phát hiện ra bé mèo dường như đi lạc và đoán rằng bé đang đói và lạnh, một bà cụ đã mở cửa phòng mình rồi ngồi khuất một nơi để bé mèo không nghi ngại. Quả nhiên bé rón rén bước vô nơi bà ở rồi nằm cuộn tròn trên thảm. Sự hiếu khách cùng đôi tay vuốt ve trìu mến của một người già sống lẻ loi đã giữ được chân bé mèo ở lại. Khi đủ mến tay mến chân, bà cụ quyết định đưa bé mèo đến trạm thú y khám tổng quát mà không ngờ rằng đó cũng là lúc phải chia tay bé. Trạm thú y báo cho bà biết bé mèo đã được cấy vi mạch (microchip), nghĩa là bé mèo có chủ.

Nhí nôn nóng xin được gặp bé mèo ngay. Thằng bé cùng ông bà ngoại được đưa sang phòng bên nơi một bà cụ đang ngồi, đặt trên lòng là chiếc giỏ lưới có Bi Ve nằm ngoan bên trong. Vừa thấy ông bà và Nhí bước vào, bà cụ hiểu ngay. Run rẩy thò bàn tay lấy Bi Ve ra khỏi giỏ, bà cụ ôm bé vào lòng. Môi bà mấp máy gọi tên bé mèo và thầm thì với bé như thể nhắn nhủ đôi lời trước khi trao bé về lại chủ cũ. Nhí háo hức gọi tên và cùng lúc đưa tay đón bé mèo nhưng chỉ nhận lại tiếng “meo” thật to. Rồi ngay lập tức bé mèo mở to mắt cảnh giác, giương vuốt, dựng lông. Đoạn bé duỗi mình, xoay người rúc đầu vào đôi vai lúc ấy đang rung của bà cụ dù tiết trời không lạnh.

Nhí ngẩn ngơ, vỡ lẽ. Thì ra loài mèo biết chọn chủ cho mình. Giờ đây bé mèo đã chọn bà cụ. Chờ thêm giây lâu để bé mèo thực sự an tâm trong lòng bà cụ, Nhí mới thận trọng đưa tay vuốt nhẹ sống lưng của bé. Lần này thì Nhí cũng chỉ nhận lại tiếng gầm gừ nho nhỏ. Thằng bé rụt tay lại, mỉm cười thật tươi nói với bà cụ,

“Đúng là Bi Ve của con hồi đó. Bà đã đặt tên bé mèo là Hạt Đậu, phải không? Xin bà hãy chăm sóc tốt cho Hạt Đậu.”

Câu nói nhẹ hều của thằng bé khiến bà cụ không tin vào tai mình. Bà hỏi đi hỏi lại cho rõ đến tận khi giọt lệ lóng lánh đọng nơi khóe mắt chực hờ rơi.

Nghe cháu nói với bà cụ mà ông bà ngẩn ngơ vì những tưởng ông bà đã là một thí chủ hào phóng, không ngờ thí chủ chân chính mới là thằng cháu ngoại của mình. Bởi lẽ trên đường đưa cháu đến trạm thú y, ông bà hứa với Nhí rằng trước khi đem Bi Ve về lại nhà sẽ hoàn trả tiền khám bệnh cho người giữ nuôi bé. Chẳng phải cháu của ông bà đang thực hành cách sống cho đi mà không cần nhận lại? Chẳng phải cháu của ông bà hiểu ra rằng cái bí quyết của hạnh phúc là tìm gặp những người ít may mắn hơn mình? Chẳng phải cháu của ông bà muốn nhắc nhở rằng dù có mất thứ gì quí đến đâu đi nữa thì cũng bằng lúc mình chưa có mà thôi nên tâm còn động vọng nỗi gì!

Câu chuyện giữa ông bà và cháu trên đường trở lại nhà ắt có nhiều điều hoan hỷ được chia sẻ cùng nhau. Chắc hẳn trong tâm mỗi người còn đọng một giọt xuân tưới tẩm cho kiếp nhân sinh vốn dĩ ngụp lặn trong phiền não, âu lo. Chuyên cần gieo hạt giống thiện lương thì có một ngày hạt giống đó sẽ nẩy nở, đơm hoa kết trái. Hoa thơm, trái ngọt, mặc sức mà hưởng.

Lời nhắc nhở nghe như kinh nhật tụng trong lòng. Ủa, đơn giản chỉ vậy thôi sao giờ mới ngộ! 

(Truyện dự thi Phật Pháp Ứng Dụng do Chùa Hương Sen, Perris, California tổ chức năm 2022. Tác giả sống tại miền trung tiểu bang California.)


Discover more from Tinh Tấn Magazine

Subscribe to get the latest posts sent to your email.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *