Photo: Tranh vẽ Ngài Wonhyo (617-686); không rõ tác giả, ngày vẽ, được Wikimedia Commons cung cấp miễn tác quyền.
Bài THÍCH VÂN PHONG
Thiền sư Wonhyo (Nguyên Hiểu) tục danh Seol Seo-dang sinh năm Canh Thân (617), năm thứ 36 đời vua Jinpyeong (Chân Bình Vương), triều đại Silla (Tân La). Khoảng 1400 năm trước đây, nơi sinh quán của Ngài địa danh là Buljichon, nay thuộc thôn Sinwol, thị trấn Amnyang, thành phố Gyeongsan (Khánh Sơn Thị) tỉnh Gyeongsangbuk-do (Khánh Thượng Bắc Đạo), Nam Hàn. Phụ thân của Ngài là cụ ông Seol Dam-nal.
Pháp danh Wonhyo (Nguyên Hiểu) nghĩa là “bình minh.” Ngài không những là bậc danh đức tiên phong cho tư tưởng Phật Giáo Cao Ly (Korea), cho tư tưởng của các nhà triết học tiên phong tại quốc gia này.
Khác hẳn với cha mình, Ngài chỉ làm quan đến bậc 11 trong 17 bậc quan thời Silla; thuở nhỏ Ngài đã tinh thông võ nghệ, có học vấn hơn người và luôn mơ ước trở thành một hiệp sĩ Hwarang (nhóm thanh niên nghĩa hiệp thời Silla).
Thời chiến tranh có quá nhiều người tử nạn; trước cảnh chết chóc do binh đao loạn lạc, nhận thức được chân tướng của sự vô thường, thế thái nhân tình đều quanh quẩn trong vòng tương đối mâu thuẩn khổ đau, Ngài tỏ ngộ chân lý Phật Đà và lập chí xuất trần.
Năm 31 tuổi Ngài xuất gia nơi ngôi đại Già Lam Hoàng Long Tự (Hwangnyongsa) thành phố Gyeongju và được Hòa Thượng Bổn sư ban cho pháp danh Wonhyo (Nguyên Hiểu) có nghĩa là “ánh bình minh tỏa sáng,” Khi trở thành tăng sĩ sinh sống chốn thiền môn thì Ngài tâm niệm phải làm rạng danh Phật giáo. Ngài du hành khắp các danh lam tự viện trên toàn quốc, tham học lão thông Phật, Nho, Lão tam giáo cửu lưu, chuyên tu tập thiền định và nổi tiếng là một người trí tuệ phi phàm.
Phát túc siêu phương tâm cầu học Phật thăng tiến trên đường đạo, Ngài quyết định xuất dương du học vào thời Đường triều, Trung Hoa. Năm Canh Tuất (650), lúc 34 tuổi, Ngài cùng tăng thân Euisang (Nghĩa Sương) vượt sông Amnokgang (Áp Lục Giang) hướng biên giới Trung Quốc lên đường cầu pháp nhưng bị chướng duyên bởi bị hiểu lầm là giáp điệp tại Goguryeo (Cao Câu Ly) và bị tù giam ở đây mất một tháng; chuyến đi này không thành công nhưng Ngài vẫn giữ chí nguyện kiên cường và quay trở về cố hương chờ thời cơ.
Năm Canh Thân (660), 10 năm sau, dù tuổi đã 45 nhưng một lần nữa Ngài cùng tăng thân Euisang quyết dấn thân dùi mài cầu học Phật, hai người rời Gyeongju (Khánh Châu) ra đi. Lần này trên suốt các nẻo đường Daegu, Chungju, Yeoju, Pyeongtaek, Hwaseong… đến Dangjuye, lãnh thổ của Baekje (Bách Tế), qua đường biển để vào Trung Hoa.
Trên lộ trình Ngài được chứng kiến biết bao cảnh trần gian ảo mộng, trải nghiệm sự biến đổi của vạn vật khắp nơi, tiếp xúc với nhiều nỗi buồn vui sướng khổ của dân nghèo, những người đang chịu cảnh chiến tranh tang tóc. Khi đến vùng phụ cận của Hwaseong (Hoa Thành) thuộc tỉnh Gyeonggi-do (Kinh Kỳ Đạo) ngày nay, nơi hải cảng trời tối đen lại gặp giông bão ập đến, Ngài đã nghỉ qua trọn đêm ở một hang động và công cuộc du học của Ngài cũng đã dừng lại tại đây. Lúc tỉnh dậy vào buổi sáng hôm sau, Ngài phát hiện ra nước mình uống đêm hôm qua trong cơn khát chính là nước đọng trên những bộ xương sọ. Ngài vỡ lẽ thực tế là người ta không thể nhịn được ói mửa sau khi biết những ngụm nước ngọt và ngon miệng đến vậy trong cơn khát canh khuya kia là nước đọng trên hài cốt.
Trời mưa lớn kéo dài, vừa đói khát lại thêm lạnh rét, Ngài đành phải lưu lại nơi nghĩa địa hoang vắng một đêm nữa. Đêm thứ hai Ngài không thể ngon giấc được, bởi được biết mình đang ở trong một nghĩa địa cổ xưa và sự kiện này đã khiến Ngài trầm tư quán tưởng, sau đó Ngài đã tỏ ngộ rằng: “Nhất thiết duy tâm tạo,” tất cả hiện tượng thế giới thảy do tâm, Tâm chẳng khác Vật, Vật chẳng khác Tâm, Tâm tức Vật, Vật tức Tâm… Toàn thể vũ trụ đều nằm trong tâm này. Như bóng nào cũng nằm trong gương, như sông nào cũng ở trong đại dương. Sự vật nào, phàm thánh nào cũng đều ở trong Nhất Tâm này và chính là Nhất Tâm này. Sự nhận thức bất ngờ đó làm cho Ngài thấy rõ Tam Giới Duy Tâm, ba cõi duy chỉ là Nhất Tâm, “Tất cả pháp đều là Phật pháp.” Ngài bỏ ý định đến nhà Ðường cầu pháp. Rồi một lần nữa, Ngài trở lại Silla.
Ngài dù thân là một nhà Sư nhưng cuộc đời phải trả định nghiệp tiền kiếp. Một hôm Ngài được Vua triệu vào hoàng cung Yoseonkung, nơi đây Ngài được sự ái mộ của công chúa Yoseok (Dao Thạch), con gái yêu quý của vua Taejong Muyeolwang (Thái Tông Vũ Liệt Vương), vua đời thứ 29 của Silla. Ngài thị hiện kết duyên với công chúa Yoseok và hạ sinh được một người con trai tên là Seolchong (người này khi lớn khôn đã thành một văn nhân đại học giả nổi tiếng nhất về Khổng giáo, người có công trong việc phát triển chữ quốc ngữ Đại Hàn, được liệt vào một trong thập hiền, tài năng xuất chúng của triều đại Silla).
Sau đó Ngài Wonhyo không mặc tăng phục cà sa và trở thành một cư sĩ sống bình thường. Ngài mang bên mình một chiếc gáo bầu mà giới nghệ sĩ nhân gian thường hay dùng để đùa nghịch, Ngài dạo quanh khắp các làng quê, vừa nhảy múa vừa ca hát. Cử chỉ và sự xuất hiện của Ngài lập dị và bất thường. Dáng vẻ Ngài rất khôi hài, khiến mọi người gọi Ngài bằng những cái tên như “Tiểu Tính cư sĩ” hay “Bốc Tính cư sĩ.” Ngài đã gõ trên một cái bầu và hát rằng: “Chỉ có một người không lo âu, không sợ sệt thì thẳng bước tiến lên và chiến thắng sự luân hồi của sinh và tử.” Bài “Vô Ngại Ca,” giáo lý Phật giáo do Ngài sáng tác thành bài hát đơn giản, đã trở thành tác phẩm tuyệt diệu được phổ nhạc ca hát trên khắp mọi miền đất nước, và những lời Ngài dạy như: “Nếu miệng niệm kinh Phật, tai nghe lời Phật dạy thì ai cũng có thể thành Phật” cũng đã đi vào lòng người dân Silla. Từ nông phu cho đến thợ gốm, ai ai cũng biết đến Phật và thuộc lòng câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật,” tất cả đều là nhờ vào công của Ngài, vị cao tăng Silla mở đầu quá trình đại chúng hóa Phật giáo.
Ngài chọn đời sống bình dân giản dị, để hòa quang đồng trần, dồn tâm huyết cho việc đại chúng hóa Phật giáo. Vào thời bấy giờ phần lớn chư tôn đức tăng Phật giáo được sự kính trọng của vua quan và sống trong những ngôi đại tự chùa lớn, chế độ của tăng sĩ sống cao sang như những quý phái. Ngài thì ăn mặc thô sơ, sống lang thang trên khắp phố phường. Chính cuộc sống bình dị giản đơn của Ngài mà rất dễ gần gũi với mọi hạng người bình dân trong xã hội. Ngài tùy duyên giáo hóa mọi người quy hướng Tam Bảo học Phật pháp. Ngài được sự kính trọng của Vua quan đương thời, là một cố vấn tin cậy, tham mưu cho Vua nước Silla và Triều thần trong việc quốc sách an dân.
Thời gian này, Ngài cũng là bạn của những người dân bình thường. Ngài đã hoàn toàn nhiếp phục được những thường dân, họ đã say sưa nghe lời giáo huấn của Ngài một cách tự phát. Những người mạt hạng cùng đinh, thất học, nghèo khổ đi xin ăn lang thang đường phố và ngay cả trẻ con cũng quý mến theo Ngài học Phật pháp, họ luôn tin tưởng sự dạy dỗ của Ngài, và họ luôn hy vọng trong tương lai sẽ được vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc bằng cách thường trì danh niệm Phật.
Cuối đời còn lại, Ngài tận dụng thời gian sắp xếp, chỉnh lý lại các nội dung quan trọng của Phật pháp để viết thành sách. Các tác phẩm của Ngài như Kim Cương Tam Muội Kinh Luận, Thập Môn Hòa Tranh Luận, Di Đà Luận Tánh Ca,… đều thấu tỏ tư tưởng Phật giáo, không nghiêng lệch phiến diện, trở thành động lực đem lại sự thống nhất cho Phật giáo thời bấy giờ.
Hóa duyên ký tất, Ta Bà quả mãn, thuận thế vô thường, Ngài an nhiên viên tịch tại ngôi Già Lam Hyeolsa (Huyệt Tự) vào ngày 30 tháng 3 năm Canh Thân (686), năm thứ 6 đời vua Sinmunwang (Thần Văn vương), hưởng thọ 70 Xuân, trụ trì 38 Đông. (Sau đó, Seol Chong chủng tử của Ngài đã thỉnh xá lợi của Ngài về Chùa Bunhwangsa (Phân Hoàng Tự-芬皇寺) an vị trong bảo tháp tôn thờ tại đây.)
Sắc thân Ngài tuy không còn tại thế, nhưng bài hát “Vô Ngại Ca” hay tư tưởng “Hòa Tranh” của Ngài đã trở thành công cụ để vỗ về an ủi nổi lòng dân chúng, bách tính trăm họ đang chịu khổ bởi chiến tranh triền miên và đó cũng là nền tảng cho sự phát triển Phật giáo đại thừa thời Silla. Tư tưởng “Hòa Tranh” của Ngài đã hóa giải những kiến chấp sai biệt, hài hóa các cuộc tranh chấp, để lột tả được cái nhìn tổng thể của Phật giáo. Sự phản ảnh xu hướng này, Ngài còn được tôn vinh một danh hiệu Hòa Tranh Quốc Sư (和諍國師).
Sau khi Silla thống nhất lãnh thổ, ba giáo phái mới ra đời cộng với hai giáo phái cũ thời Tam Quốc (Koguryo, Shilla, Paekche) thành năm giáo phái, đều là Đại Thừa Phật Giáo, trong đó hai giáo phái nổi bật, đó là Tịnh Độ và Thiền. Phái Tịnh Độ quảng bá khắp nhân gian, do Ngài Wonhyo xây dựng, biến những cơ sở tự viện Phật Giáo thành trung tâm văn hóa giáo dục, dung hợp phương thức hành trì, triển khai tư tưởng Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Du Già, Trung Quán, chủ trương hòa nhập với quần chúng, không khép mình giới hạn trong tự viện chùa chiền, đôi khi Ngài sống lẫn lộn với đám hành khất để hoằng đạo.
Đức hạnh và pháp ngữ của Ngài lưu danh vạn thế, mãi mãi được sự tôn kính, nhân dân đời đời kính yêu và tôn vinh là một vị Cao Tăng của Cao Ly.
Đạo nghiệp đời Ngài tỏa sáng muôn phương, phản chiếu qua những tác phẩm khác nhau. Hiện những tác phẩm của Ngài được phổ biến tại Nam Hàn:
1- Đại Huệ Độ Kinh Tông Yếu (Daehyedo Gyeong Jong-yo-大慧度經宗要).
2- Pháp Hoa Tông Yếu (Beophwa jong-yo-法華宗要).
3- Hoa Nghiêm Sớ Tỉnh Tự (Hwaeomgyeong byeongseo-華嚴經疏幷序).
4- Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp Kinh Sớ Tỉnh Tự (Bosal yeongnak bon- Gyeong sobyeong seo-菩薩瓔珞本業經疏幷序).
5- Niết Bàn Tông Yếu (Yeolban jong-yo-涅槃宗要).
6- Di Lặc Thượng Sinh Kinh Tông Yếu (Mireuk sangsaeng Gyeong Jong-yo-彌勒上生經宗要).
7- Giải Thâm Mật Kinh Sớ Tỉnh (Haesimmilgyeong để seo (解深密經疏序).
8- Vô Lượng Thọ Kinh Tông yếu (Muryangsugyeong jong-yo-無量壽經宗要).
9- Phật Thuyết A Di Đà Kinh Sớ (Bulseol Amitagyeong-佛說阿彌陀經疏).
10- Du Tâm An Lạc Đạo (Yusim allak-遊心安樂道).
11- Bồ Tát Giới Bản Trì Phạm Yếu Ký (Bosal gyebon jibeom-菩薩戒本持犯要記).
12- Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bản Tư Ký (Beommang Gyeong bosal gyebon sagi-梵網經菩薩戒本私記 ).
13- Kim Cang Tam Muội Kinh Luận (Geumgang sammae gyeong-金剛三昧經論).
14- Đại Thừa Khởi Tín Luận Biệt Ký (Daeseung gisillon byeolgi -大乘起信論別記).
15- Đại Thừa Khởi Tín Luận Sớ (Daeseung gisillon để (大乘起信論疏).
16- Nhị Chướng Nghĩa (Ijangui-二障義).
17- Phán Tỳ Lượng Luận (Pan biryang -判比量論).
18- Trung Biên Phân Biệt Luận Sớ (Jungbyeon bunbyeollon-中邊分別論疏).
19- Thập Môn Hòa Tranh Luận (Simmun hwajaeng-十門和諍論).
20- Phát Tâm Tu Hành Chương (Balsim suhaeng jang-發心修行章).
21- Đại Thừa Lục Tình Sám Hối (Daeseung yukjeong chamhoe-大乘六情懺悔).
22- Di Đà Luận Tánh Ca (Mita jeungseong ga-彌陀證性歌).
Những tác phẩm Ngài lưu lại cho hậu thế trên 100 thể loại, chủ đề khác nhau gồm 240 quyển. Ngài phân khoa phán giáo hai lĩnh vực giáo lý Nguyên Thủy và Đại Thừa.
(Nguồn bài: Đạo Phật Ngày Nay)
Discover more from Tinh Tấn Magazine
Subscribe to get the latest posts sent to your email.