Bài TÂM QUANG – VĨNH HẢO
(Lời tâm sự của Vĩnh Hảo khi chia sẻ bài viết này với các bạn đạo: “Thầy đã viên tịch… Con đang lo hiệu đính các văn bản… mà lệ cứ chảy dài. Con yếu lòng quá chăng? Đã hiểu lý vô thường mà sao lòng cứ thổn thức, kính tiếc Thầy… Kính chia sẻ đến quý bạn di chúc tang lễ và tiểu sử của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, và bài viết của Vĩnh Hảo viết cho Kỷ Yếu Tri Ân Thầy vào tháng trước, khi Thầy còn có thể đọc được nguyên cuốn Kỷ Yếu trên giường bệnh.”)
Năm 1973 tại Phật học viện Trung Đẳng – Hải Đức Nha Trang, tình cờ đi ngang thiền thất của Ôn Giám viện, con “gặp” Thầy đứng nói chuyện với vài vị tăng sinh ở đó. Con chắp tay xá chào Thầy, rồi đi xuống liêu của điệu. Lúc đó con đã nghe tiếng tăm của Thầy, biết đơn giản Thầy là vị tăng xuất chúng, lỗi lạc, đang dạy Đại học Vạn Hạnh và sẽ về đây dạy khi Phật học viện Trung Đẳng được nâng cấp lên thành Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức vào năm sau (1974). Đây có thể nói là cái duyên ban đầu con được diện kiến Thầy. Lòng cảm phục một vị giáo sư tuổi trẻ, tầm ngang lứa với quý vị học tăng của viện. Cảm phục thôi. Con kiến dưới chân núi, chỉ thấy những gì chung quanh, phía trước, chứ không có nhu cầu nhìn lên đỉnh núi cao. Kính nhi viễn chi.
Đầu năm 1976, từ Phật học viện Quảng Nam (đã đóng cửa cùng với tất cả các trường Phật học toàn quốc), con về lại Chùa Hải Đức Nha Trang là nơi con được thế phát xuất gia nhiều năm trước đó. Thời gian này thì con được gặp Thầy thường xuyên hơn. Viện Hải Đức trước năm 1975 có gần 200 tăng sinh nội và ngoại điển; đến năm 1976 chỉ còn khoảng từ 20 đến 25 thầy và các chú sa-di, điệu. Ở nơi trai đường nhỏ (dành cho các chú điệu và phật-tử) gần nhà bếp, Thầy và quý thầy học tăng ít ỏi còn lại của Viện Cao Đẳng dùng bữa chiều tại đây. Thầy và thầy bổn sư của con ngồi đầu bàn, con làm thị giả.
Một trưa nọ, con đi lang thang trên dãy nhà cũ (trước là tăng xá dành cho học tăng chuyên khoa, nơi đặt thư viện của Viện Hải Đức), thấy Thầy ngồi nơi băng đá gần gốc cây sứ. Tay Thầy cầm một nhánh cây khô, đùa nghịch với một con kiến càng. Con kiến chạy từ đầu này đến đầu nọ là Thầy đổi tay; hết đường, con kiến quay đầu chạy ngược về hướng đầu kia thì Thầy lại đổi tay. Thầy say sưa ngắm nhìn cách con kiến quay đầu, quơ quơ hai râu và hai chân trước, rồi lại xăng xái chạy… Dường như làm điều này Thầy không có ác ý với con kiến, mà Thầy đương ở trong một pháp quán, trầm tư trong một tra vấn, một câu hỏi triết học. Con bước chậm, đi ngang qua chỗ Thầy mà Thầy có vẻ như không để ý. Con thấy thú vị với hình ảnh một vị tăng sĩ trang nghiêm, một giáo sư đạo mạo trong giảng đường đại học, lại hồn nhiên thích thú theo dõi bước đi của con kiến nhỏ.
Đâu chừng tháng sau, con được thầy Bảo Quang (học tăng Cao đẳng), dẫn lên phòng Thầy (lúc đó là một phòng nhỏ được ngăn ra từ thư viện), xin Thầy dạy kèm cho con Anh văn, Hán văn hay bất cứ môn gì Thầy thấy cần dạy cho một chú tiểu Trung đẳng bị mất căn bản, mất trường lớp từ năm 1975. Trước đó con đã run sợ, không dám được xin học với Thầy, vì vẫn luôn nghĩ đến Thầy là ngọn núi cao, khó tiếp cận, nhưng thầy Bảo Quang cứ khích lệ, “Chú mà được Thầy nhận dạy thì thật là phước đức, hy hữu! Chú không thấy hiện nay, tăng ni toàn quốc không được học ở bất cứ trường lớp nào hay sao!” Con nghĩ, núi cao kia làm gì mà cúi xuống nhìn con kiến; chắc khó được Thầy tiếp nhận. Vậy mà, Thầy đã vui vẻ nhận dạy kèm cho con, chỉ riêng mình con: mỗi chiều 2 giờ tự động mở cửa thư viện, bước vào phòng Thầy, học.
Ngày đầu trắc nghiệm trình độ chữ Hán của con, Thầy đưa con cuốn Trung Luận chữ Hán, bảo dịch lời Tựa của Tăng Duệ. Hôm sau con nộp bài, Thầy ngồi đọc, để con ngồi yên đó chờ đợi; đọc xong, không phê phán gì, Thầy bảo hôm sau trở lại. Hôm sau con vào, Thầy lấy cuốn Đường Thi Tam Bách Thủ hay cuốn thi văn chữ Hán nào đó con không nhớ, dạy con bài Đằng Vương Các Tự của Vương Bột. Đó là môn Hán. Còn Anh văn thì ngày khác. Cứ một ngày học Hán thì một ngày học Anh.
Thầy dạy được một tuần thì Thầy Bảo Quang thưa với Thầy là nên tập trung thời gian học Hán văn hay kinh luận với Thầy, còn môn Anh văn thì ai dạy cũng được, không dám phí thời gian của Thầy. Thầy cũng tùy thuận. Vậy là con qua học Anh văn nơi Thầy Phước An vào giờ khác trong ngày, sẽ được học với Thầy nhiều giờ hơn cho môn Hán văn hay kinh luận mà con mong đợi là sẽ có một lúc nào đó Thầy truyền dạy.
Một chiều, con đến học. Đã quá 2 giờ rồi mà Thầy vẫn còn ngồi miên man, chơi guitar một bản nhạc cổ điển Tây phương. Con nhà quê không biết là bản gì. Con ngồi im lặng, lắng nghe, say mê ngón đàn và phong cách trình diễn của Thầy. Có vẻ như Thầy đang nhập vào cung bậc thiền định nào đó của cảnh giới âm nhạc.
Tuần sau, con bỏ học. Con đã cáo bệnh hay viện một lý do nào đó để xin nghỉ học khi thưa với thầy Bảo Quang. Còn với Thầy, con đã vô phép viết một thư ngắn nhét vào cửa phòng của Thầy rồi rón rén đi ra. Con không nhớ con viết gì. Chỉ nhớ là thư viết rất ngắn, xin nghỉ học. Học trò mười tám tuổi, ngông cuồng ham chơi, chưa thấy được đường lên non cao. Con để dành tiền mua một cây đàn guitar, một cuốn nhạc lý Tây Ban Cầm, tự học. Con cũng bắt đầu tập tành làm thơ từ lúc ấy. Vậy ra, con chưa được học Phật Pháp với bậc pháp sư thượng thặng; chỉ mới học lõm bõm chữ Hán qua thơ Đường. Và con kiến vẫn chạy loanh quanh dưới chân núi, chưa học, chưa thấy được gì trên đỉnh núi cao.
Vài tháng sau, Thầy bỏ viện Hải Đức vào Sài-gòn, rồi nghe tin Thầy qua Thái Lan. Thực ra chỉ là tin đồn để công an không cố truy tìm Thầy. Vào thời gian đó, đi-lại, tạm trú, thường trú trên toàn quốc đều phải có giấy phép, giấy chứng nhận hay sổ hộ khẩu của chính quyền địa phương. Thầy rời khỏi Nha Trang mà không xin phép, không báo cáo ai là đã có tội; rồi vào Sài-gòn không có giấy phép đi-lại hay tạm trú là thêm một cái tội nữa. Vì vậy bỏ xứ ra đi không giấy tờ chứng nhận là một hành động liều lĩnh. Thầy rời bỏ Nha Trang là một cái tin động trời.
Sau đó không lâu, cuối năm 1977, chú tiểu thanh niên 19 tuổi cũng rời bỏ đồi Trại Thủy và viện Hải Đức, đi lang thang vào Sài-gòn. Rồi được tin Thầy bị bắt giam ở Chí Hòa (1978), đến năm 1980 mới được trả tự do. Thầy được tự do thì trò cũng tạm dừng bước phiêu lưu, theo lời giới thiệu của Ôn Trí Quang mà nhập chúng Tu viện Quảng Hương Già-lam. Tình cờ cùng tháng 10 năm đó, 1980, Thầy vâng mệnh Ôn Già-lam, mở khóa Phật học cao cấp, đào tạo đặc biệt cho học tăng đại diện các tỉnh tụ về. Đây có thể nói là khóa học đầu tiên của giáo hội dân lập, được tổ chức vào giai đoạn ấy. Buổi tối họp chúng ở trai đường Quảng Hương Già-lam để ghi danh học tăng nhập học, con được tham dự. Lúc đó thấy Thầy chủ tọa buổi họp là con đã muốn tránh né… vì sợ Thầy nhớ lại cái tội năm xưa, chú điệu này dám bỏ học. Nhưng khi thầy Nguyên Giác đọc đến tên con, con đứng dậy chắp tay chờ đợi; Thầy nhìn con một thoáng, ngần ngừ. Thầy Nguyên Giác hỏi thúc, có ghi danh người này nhập học không. Thầy nở một nụ cười nhẹ, từ bi gật đầu. Vậy là lần thứ hai, con được học trực tiếp với Thầy, nhưng lần này là trong một lớp học đàng hoàng mà đa phần là quý thầy tỳ-kheo, nhiều vị từng học đại học Vạn Hạnh và Cao đẳng Phật học trước năm 1975.
Qua khóa học này, con kiến được mở mắt thêm; mà mắt càng mở to, càng thấy núi cao ngất. Núi càng cao, con kiến lại càng khiếp sợ, trở bệnh cuồng ngông, muốn chạy xông ra ngoài biên cương của rừng núi, muốn làm cái chi đó ngoài việc ngồi học kinh luận dưới sự giảng dạy tường tận thấu đáo của Thầy…
Hai năm sau, có lệnh của ban giám học là học tăng nào có ý vượt biên vượt biển thì sẽ bị mời ra khỏi chùa Già-lam để dành chỗ cho những vị hiếu học đang cần tham dự và được nội trú. Lúc đó, Ôn Già-lam đang gửi gắm con cho một gia đình phật-tử thân tín. Gia đình này tổ chức vượt biển, và sẽ gọi con ra đi bất cứ lúc nào. Có lẽ Ôn Già-lam đã nói chuyện đó với Thầy. Thầy kêu con ra trước hồ cá điện Quán Âm, nói về mục đích của khóa học và cũng nêu cái điều lệ nghiêm khắc là sẽ không cho học tăng nào dự học mà cứ nhấp nhổm tính chuyện vượt biên. Thầy nói, “Tôi biết chú có học hay không học cũng không bị đuổi, vì chú đã thuộc chúng nội trú do chính Ôn Già-lam bảo lãnh.” Rồi Thầy mở đường cho con, “Thực ra, chú không cần học chữ Phạn, Pàli, kinh luận… gì nữa, bỏ hết đi; hãy đọc sách cho nhiều, đi nhiều và viết văn.” Nghe lời khuyên của Thầy, con vừa buồn tủi, vừa phấn khích. Buồn tủi là dường như trong mắt Thầy, con không phải là học trò có căn cơ thích hợp cho việc nghiên tầm kinh điển, phát huy tuệ học; phấn khích là ít ra Thầy cũng nhìn ra được khả năng nào đó của con về mặt văn chương. Thảo nào khi dạy kèm con ở viện Hải Đức, Thầy đã không dạy kinh luận cho con mà lại dạy Đường thi.
Tuần lễ sau đó, con cáo bệnh, thưa với thầy quản chúng là tạm thời nghỉ học để chữa bệnh – mà thực tế là con có bệnh chi đâu. Con không đến lớp nữa; chỉ vào nghe Thầy giảng Trung Luận buổi tối – đây là môn dạy thêm ngoài chương trình. Cho đến một ngày đầu năm 1983, con lặng lẽ từ giã Ôn, từ giã Thầy và lớp học Già-lam. Con kiến thay vì trèo lên núi cao, đã vào rừng sâu mơ việc đội đá vá trời.
Rồi một ngày trên rừng sâu, tháng 4 năm 1984, nghe tin Thầy bị bắt giam lần thứ hai. Rồi Ôn Già-lam mất. Những tin buồn dồn dập làm con khóc sưng cả mắt. Có khi loáng thoáng nghe tin họ sẽ kết án tử hình Thầy và Thầy Lê Mạnh Thát, con đã nghĩ tới việc tự thiêu để phản đối. Con kiến nhỏ dường như lúc nào máu cũng nóng, cũng ngông. Học thì lười mà chuyện ở đâu ngoài đường, chuyện nước non, thấy bất bình là húc đầu vào…
Một năm sau ngày Thầy bị bắt, con cũng vào tù vì cái tội “bẻ nạng chống trời.” Con bị tù sau nhưng lại ra tù sớm hơn Thầy nhiều năm. Có khi con thật tiếc là Thầy đã bị mất đi một khoảng thời gian khá dài trong lao ngục, không giảng dạy, sáng tác, phiên dịch gì được. Nhưng cũng có khi con tự an ủi, với nội lực và kiến giải thâm sâu của Thầy, không có thời gian nào trong đời là uổng phí, nhất là trong hoàn cảnh không có chi để làm ngoại trừ việc tập trung thiền định.
Ra khỏi tù, Thầy liền xăng tay lo việc giáo hội; rồi liên tục đêm ngày giảng dạy, phiên dịch, chú giải… Thoắt cái đã phần tư thế kỷ kể từ ngày Thầy được tự do khỏi ngục thất. Trách nhiệm càng sâu nặng, việc càng dồn dập. Thân bệnh yếu mà Thầy phải gánh vác bao việc lớn, bao việc dài lâu cho Phật Pháp, cho đất nước, cho các thế hệ đi sau. Những người học trò như con, cứ nghiệm về hành trạng, hoài bão và dự hướng của Thầy trong giai đoạn cuối đời là xót đau trong lòng, không ngăn được nước mắt.
Con tiếc đã không phải là học trò ngoan giỏi của Thầy đời này để có thể phụ trợ Thầy thật hữu hiệu trong những công trình hoằng pháp, giáo dục dài lâu; con cũng tiếc là không đủ phước duyên để thân cận, hầu hạ chăm sóc Thầy khi Thầy bệnh nặng già yếu. Con như con kiến nhỏ ham chơi lêu lổng, đã đôi lần có cơ hội được gần Thầy để thọ giáo từ biển trí bao la, từ non tuệ hùng vĩ, mà lại vô minh, quay lưng bỏ đi, ngao du trên những con đường gập ghềnh sỏi đá… tiêu phí tháng năm trong những giấc mộng đời phù du huyễn ảo.
Giờ này Thầy đã ở khoảng cuối của cuộc thế trăm năm, sống-chết được đếm trong từng hơi thở, mà con vẫn ở xa, tận chân núi ngước nhìn lên đỉnh cô phong: vẫn thấy kiến giải và đạo hạnh của Thầy cao vời vợi. Nhiều đời nhiều kiếp sau con vẫn không thể nào vói tới. Con không tự ti là mình quá thấp kém, nhưng con thật hạnh phúc, thật hãnh diện là trong đời này, con từng được làm người học trò nhỏ của một bậc Thầy trí tuệ thậm thâm hiếm có của thiên kỷ qua. Dù con không được học nhiều, nhưng con biết là Thầy đã biết. Con kiến mọn đã thấy con đường.
Từ phương xa vọng về nơi an trú của Thầy, xin phủ phục đảnh lễ bậc ân sư khả kính đã khai mở mắt tuệ và vạch lối đi cho hành trình vạn dặm muôn đời sau của con.
California, ngày 7 tháng 10 năm 2023
Discover more from Tinh Tấn Magazine
Subscribe to get the latest posts sent to your email.